Huyện Bến Lức là một trong 14 huyện, thị xã thuộc tỉnh Long An, được chia thành 15 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó thị trấn Bến Lức là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của huyện. Các đơn vị còn lại là: xã Thạnh Lợi, xã Thạnh Hoà, xã Lương Bình, xã Lương Hoà, xã Tân Hoà, xã Bình Đức, xã An Thạnh, xã Tân Bửu, xã Thanh Phú, xã Thạnh Đức, xã Nhựt Chánh, xã Long Hiệp, xã Mỹ Yên và xã Phước Lợi.
1. Vị trí địa lý: Bến Lức nằm phía Đông của tỉnh Long An là một địa bàn chiến lược về kinh tế và quân sự của thành phố Hồ Chí Minh, là cửa ngõ phía Bắc của miền Tây Nam Bộ. Huyện Bến Lức có diện tích 285,97 Km2, dân số (năm 1997) 123.845 người, chiếm 6,59% về diện tích và 9,55% về dân số so toàn tỉnh, mật độ dân số là 433 người/km2, lớn gấp 1,93 lần so với mật độ toàn tỉnh. Phía Bắc giáp huyện Đức Hoà, huyện Đức Huệ; phía Đông giáp huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; phía Nam giáp huyện Cần Giuộc, huyện Cần Đước, huyện Tân Trụ; phía Tây giáp Thủ Thừa.
Quốc lộ 1 A là trục giao thông đường bộ chính của Quốc gia nối liền địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với đồng bằng sông Cửu Long đi qua huyện Bến Lức; ngoài ra, còn có các tuyến đường bộ Quốc gia đi qua huyện Bến Lức như: đường Quốc lộ N2, đường Quốc lộ cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương, đường Quốc lộ cao tốc Bến Lức – Long Thành, tạo điều kiện cho huyện Bến Lức phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá, tiếp cận nhanh chóng những thông tin mới nhất trong nước, hoà nhập với kinh tế thị trường, phát triển nhiều loại hình dịch vụ, hình thành các điểm trung chuyển hàng hoá giữa miền Tây lên Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại.
2. Khí hậu: Huyện Bến Lức có khí hậu nhiệt đời gió mùa với nền nhiệt độ cao đều quanh năm. Lượng mưa khá lớn và phân bổ theo mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm của huyện là 1.625 mm nhưng phân bổ không đều theo năm. Mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10 chiếm 85% tổng lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa khô, mưa ít, lượng mưa chiến 15% tổng lượng mưa cả năm. Chế độ mưa tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của huyện. Phần lớn huyện Bến Lức sản xuất hai vụ lúa/năm; vụ hè thu sử dụng giống ngắn ngày năng suất cao, vụ đông xuân sản xuất lúa đặc sản.
Tổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.630 giờ, trung bình ngày 7,2 giờ nắng. Tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 2, tháng 3, khoảng 267 giờ, tháng 8 có số giờ nắng ít nhất khoảng 189 giờ. Nhiệt độ trung bình hàng năm 270C. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm 82,79%.
Thuỷ văn: Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ Campuchia chảy ra biển Đông qua địa phận Bến Lức với chiều dài 21 km, với chiều rộng trung bình 200- 235 m, sâu 11- 12 m. Vào mùa cạn lượng nước trên sông không đáng kể, lưu lượng trung bình chỉ có 11 m3/s, hạ lưu chịu ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều.
Sông Bến Lức nối sông Vàm Cỏ Đông với sông Sài Gòn qua kinh Đôi, rộng 20 – 25 m, sâu 2- 5 m, chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ văn sông Vàm Cỏ Đông. Hai con sông trên có giá trị rất lớn về giao thông đối với huyện Bến Lức. Từ Vàm Cỏ Đông, tàu thuyền có thể đi ra biển Đông một cách thuận tiện.
Kênh Thủ Đoàn nối liền sông Vàm Cỏ Đông với sông Vàm Cỏ Tây cùng với mạng lưới kênh rạch khá dày đặc tạo thành hệ thống thuỷ lợi và giao thông quan trọng trong sản xuất và lưu thông hàng hoá.
VĂN HÓA CỦA VÙNG ĐẤT BẾN LỨC MỘT SỐ NỘI DUNG KHÁI QUÁT
Đầu thế kỷ thứ XVII, trên vùng đất hoang vu với tên địa danh Bến Lức bây giờ đã có những nhóm lưu dân đến định cư và sinh sống, với địa thế thuận lợi, dọc 2 bờ sông Vàm Cỏ Đông từ bao đời đã vung đắp lượng phù sa màu mỡ, thích nghi cho việc trồng lúa nước. Những đoàn di dân dừng chân dọc triền sông có nhiều loại cây Lứt hoang dại thân thảo mọc đầy 2 bờ, bèn đặt tên địa danh là Bến Lứt, nghĩa là cái bến sông có nhiều cây Lứt mọc nhưng do cách phát âm trệch (thông dụng của các vùng đất Nam Bộ) nên đã không phân biệt rõ âm c và t, lâu dần thành quen và với tên gọi Bến Lức như bây giờ. Từ vùng đất hoang vu, đầy rừng hoang, thú dữ và cỏ dại, nhưng với khối óc và đôi bàn tay của những lớp lưu dân đã dần chiến thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, nguy hiểm của rừng thiêng, thú dữ, họ đã dừng chân trú ngụ và tiến hành khai khẩn tạo nên cánh đồng lúa trù phú “cò bay thẳng cánh” và trở thành chủ nhân đích thực của vùng đất mới, vùng văn hóa mới. Với đặc trưng vốn có của nền văn hóa gốc nông nghiệp là: nắng nóng mưa nhiều, thiên về trồng lúa nước; ứng xử với môi trường tự nhiên là sống định cư, thái độ tôn trọng và ước mong sống hòa hợp với thiên nhiên; Tư duy nhận thức thiên về tổng hợp và biện chứng trong quan hệ, nặng chủ quan cảm tính và kinh nghiệm; tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ với cách thức linh hoạt và dân chủ, trọng tập thể, cộng đồng; ứng xử với môi trường xã hội là dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó. Tất cả đã thấm thấu trong từng con người đi mở đất, trong quá trình di dân với nền văn hóa gốc của lưu vực sông Hồng và sông Mã, họ đã có sự giao thoa và tiếp biến với nền văn hóa Sa Huỳnh (miền trung) và Óc Eo (Nam bộ) đã tạo nên đặc trưng riêng của một vùng văn hóa Nam bộ nói chung và Bến Lức nói riêng. Biểu hiện của nó thể hiện đa dạng và đậm nét trong tiến trình hình thành và phát triền của vùng đất và người Bến Lức. Tuy nhiên, điểm xuất phát đều bắt đầu từ cội nguồn của nền văn hóa truyền thống của dân tộc giàu sức sống có từ hàng nghìn năm, đó là những tín ngưỡng, phong tục tập quán, đạo đức truyền thống, nếp sống, vốn văn hóa, tình yêu quê hương đất nước, lòng hướng về cội nguồn, những kinh nghiệm lao động, đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, tình yêu thiên nhiên, gắn bó và sự cố kết cộng đồng….tất cả được kế thừa và sinh ra trên vùng đất mới và được lưu truyền từ bao đời nay, tạo nên vốn văn hóa đặc thù của vùng đất Bến Lức, được thể hiện cụ thể trên một số nội dung mang tính khái quát sau:
I/ VĂN HÓA DÂN GIAN:
Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã khẳng định Bến Lức là một trong những vùng đất có trữ lượng khá lớn về ca dao, truyện kể và dân ca.
1/ Ca dao
Ca dao phản ánh đậm nét, đầy đủ nhất tính cách và tâm hồn con người địa phương có cùng điều kiện về tự nhiên và xã hội gồm các huyện như Bến Lức, Cần Giuộc, Cần Đước, Thủ Thừa, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp…nó phản ánh các mối quan hệ gia đình và xã hội, khát vọng, hạnh phúc về tình yêu trai gái, quan hệ đất nước, lịch sử…của đất và người Long An nói chung và Bến Lức nói riêng.
2/ Nói vè
Ở Long An thể loại vè nơi nào cũng có, nhưng tập trung nhiều nhất ở các huyện Bến Lức, Mộc Hóa, Cần Giuộc. Vè có nhiều loại: vè nói về các sự kiện lịch sử, về sản vật địa phương nổi lên sự trù phú, giàu có của địa phương như vè Bách hoa, Bách thú, ghi lại những công việc thuộc về nghề nghiệp như vè đi ghe, vè đánh lưới, vè nhổ bàng, vè đi cấy… Có những việc thuộc về sinh hoạt xã hội như: vè đánh ghen, vè uống rượu, vè thịt chó, vè Con gái hư, vè Tết, vè Đám cưới, vè Chữa hoang, vè Chống say rượu…
3/ Về truyện kể
Ở Bến Lức đáng chú ý nhất có mảng truyện cười của ông Bộ Lữ sáng tác của ông có những mặt gần gũi với truyện cười của Bác Ba Phi ở Minh Hải. Về mặt cấu trúc, cốt truyện thường đơn giản, ngắn gọn, yếu tố gây cười mạnh và nhạy, tính chất thì phóng đại, ngoa vụ, thường vượt xa thực tế. Ví dụ như truyện Tháo đập có con cá trê với chiếc đầu to như chiếc ghe tam bản, có thể dùng chở qua sông hàng chục người hoặc con chó săn bị heo rừng đánh bể đầu nên tiếng sủa trở nên “ cạch … cạch” mà vẫn tiếp tục săn mồi (truyện Chó săn)….
4/ Nghệ thuật cổ truyền
Huyện Bến Lức hiện còn tồn tại 4 loại hình nghệ thuật cổ truyền đó là Nhạc lễ, nhạc Tài tử, Múa lân và Dân ca
a) Dân ca
Các làn điệu dân ca ở Long An rất phong phú gồm đủ thể loại thường thấy ở Nam bộ như lý, hò, nói vè, nói thơ, hát đưa em… trong đó Hò là thể loại diễn xướng phổ cập nhất trong các thể loại dân ca, ở Bến Lức có 2 loại hò:
– Trên đồng ruộng có hò cấy, hò cấy ở Bến Lức khác với hò cấy ở các địa danh lân cận khác, với giọng hò chính là hò Giọng đồng (thường là giọng hò Mái xay và hò Hòa hơ) và giọng hò phụ là hò Mái ố.
– Dưới sông, kênh thì có hò Chèo ghe, hò này chỉ có 1 giọng hò giống với các vùng, bởi Bến Lức có nhiều kênh sông nối liền Chợ Đệm – Bến Lức – Thủ Thừa là đường giao thông thủy chính nối liền Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ngày đêm ghe thuyền đi lại tấp nập, tiếng hò Chèo ghe đêm đêm ngân vang trên các dòng sông, kênh.
b) Nhạc Tài tử
Là loại hình còn tồn tại khá phổ biến đều có ở các xã trong huyện, tập trung 24 nơi, loại hình này hiện nay có xu hướng thiên về cải lương nhẹ về chất bài bản và thể điệu tài tử, nên rất cần có sự định hướng, tổ chức sắp xếp lại.
c) Nhạc lễ
Toàn huyện hiện chỉ rất ít ban nhạc lễ gồm: TTBL 01, Nhật Chánh 01; Thanh Phú 01, Long Hiệp 01
d) Múa lân Phát triển mạnh trong thập niên 90, mạnh nhất ở TTBL, Phước Lợi, Lương Hòa, nhưng đến nay chỉ còn tồn tại như 1 vài đội, nhóm nhỏ ở 1 số xã, thiếu chuyên sâu về kĩ thuật, nặng về dịch vụ.
II/ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN
1/ Tín ngưỡng dân gian
Qua nghiên cứu hoạt động tín ngưỡng dân gian trên địa bàn huyện, nhận thấy rằng tín ngưỡng dân gian của đồng bào Bến Lức được thể hiện và phổ biến dưới 2 dạng đó là:
a/ Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên :
Được nhân dân thờ trong các đình, miếu và tại gia đình đó là các nhiên thần như Bà Ngũ Hành ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) hay gọi là thần không gian như tục thờ Thần Nông, Sơn thần, Hổ thần, tục thờ Tam phủ là mẹ (bà) trời, mẹ đất và mẹ thủy, tục thờ thổ công, tục thờ Ông Địa….
b/ Tín ngưỡng sùng bái con người
– Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Là nét tín ngưỡng rất phổ biến của nhân dân Việt Nam ta, gần như là 1 tôn giáo (nhiều nơi còn gọi là đạo Ông Bà hay đạo thờ Tổ 3 cấp hay 4 cấp, có thể nói đây là đạo gốc trong hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của người Việt) đây là tục thờ cúng những người đã khuất, đặc biệt là tổ tiên, đa phần không có gia đình nào mà không thờ tổ tiên trong nhà. Nhân dân ta rất coi trọng việc cúng giỗ với ý nghĩa tưởng nhớ về các đấng sinh thành, giáo dục truyền thống hướng về cội nguồn cho con cháu và đời đời phải tuân theo.
– Tín ngưỡng thờ Thổ công
Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, các gia đình Việt Nam nói chung và Bến Lức nói riêng còn có tục thờ Thổ công (địa thần một dạng của Mẹ Đất) là vị thần trông coi gia cư, đây là vị thần rất quan trọng định đoạt phúc, họa cho một gia đình, Thổ công là hình tượng bộ ba, truyện thường kể với sự tích Táo Quân…
– Tín ngưỡng thờ thần:
Ngoài các vị thần tại gia còn có các thần linh chung của cộng đồng xã, ấp và vị thần quan trọng nhất đó là thần làng (Thành Hoàng). Thành Hoàng trong một làng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng, đó là những người có công với nước với dân, với làng và được dân làng sùng bái. Hệ thần được thờ trong các đình hiện nay thường dùng 2 chữ Thành Hoàng để chỉ chung, còn trong văn bản thường dùng các từ như Đương Cảnh Thành Hoàng, Bản Cảnh Thành Hoàng, Bổn Cảnh Thành Hoàng. Thần Thành Hoàng ở Bến Lức có chung một đặc điểm là không có thần phả và thần tích. Hiện nay ở 1 số nơi như Thạnh Lợi, Long Hiệp, Thạnh Đức, Phước Lợi… nhân dân đã xây bia liệt sĩ trong khuôn viên đình, hoặc khắc bia trong đình để hương khói thờ cúng. Sự thờ phụng Thành Hoàng tượng trưng cho làng xã và sự trường tồn của thôn ấp, Thành Hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục tập quán, đạo đức và pháp luật cùng với hy vọng của cả làng, đồng thời là 1 thứ quyền uy siêu nhiên, một mối liên lạc vô hình, khiến làng xóm trở thành một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ. Dân làng đối với Thành Hoàng kính cẩn như con cháu đối với tổ tiên vậy.
Bên cạnh việc thờ Thành Hoàng tại đình và Thổ công tại gia, nhiều hộ gia đình trong huyện còn thờ Quan Thánh Đế Quân ( được các tôn giáo như Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo xem như vị thần ). Tại các cộng đồng dân cư ở ấp 1, ấp 8 xã Nhựt Chánh và Thị trấn Bến Lức, có lập Đền thờ Quan Thánh Đế Quân qui mô khá lớn ( mà dân gian quen gọi là chùa Ông ).
– Tín ngưỡng thờ mẫu:
Đây là kết quả của quá trình giao lưu, hổn dung văn hóa của nhiều lớp cư dân giữa những lưu dân người Việt, Khmer, Chăm, Hoa trong quá trình Nam tiến, nó xuất phát từ cái nôi của nền văn minh Đại Việt gặp gỡ và giao thoa, hòa nhập cùng tín ngưỡng thờ Nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm, Khmer tất cả đồng điệu trong tâm thức cùng biểu tượng về Đức mẹ nhân từ. Các Mẫu thần được thờ ở Bến Lức gồm: Bà Ngũ Hành ( Việt ), Thiên Y Thánh mẫu ( Chăm), Bà Cố Hỷ ( động vật Chồn ), Bà Chúa Xứ ( Khmer).
2/ Phong tục tập quán
Lễ hội của đồng bào Long An nói chung và Bến Lức nói riêng có những nét chung trong lễ thức truyền thống và nét riêng theo tín ngưỡng vùng miền, có thể chia làm 2 loại cụ thể như sau:
a/ Những lễ thức mang tính tập tục cổ truyền của dân tộc như:
– Tết Nguyên Đán là tết cổ truyền của dân tộc, lễ tết lớn nhất trong năm và được nhân dân rất chú trọng;
– Lễ Rằm tháng giêng hay là tết Nguyên Tiêu còn là ngày vía đức Phật Adiđà (lễ cả năm không bằng rằm tháng Giêng). Ở Bến Lức lễ Rằm tháng giêng được đông đảo bà con hưởng ứng bằng cách trẩy hội nô nức đến cúng phật tại chùa để cầu phúc lành cho gia đình, dòng họ, đất nước và bản thân.
– Lễ Tảo mộ
Phong tục này ở Bến Lức nói riêng và Long An ta nói chung thường tổ chức vào ngày 25 tháng Chạp nhằm sửa sang mộ phần tổ tiên cho khang trang, sạch đẹp để đón tết cùng con cháu, và cũng ngày này hàng năm lãnh đạo và nhân dân huyện Bến Lức đã sửa sang mộ phần các anh hùng liệt sĩ và long trọng tổ chức lễ viếng kéo dài cả trong 1 ngày để thân nhân liệt sĩ các nơi về dâng hương, tưởng niệm tri ân tại nghĩa trang huyện.
– Tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch)
Đây ngày tết mà dân ta kỷ niệm thời điểm giữa năm, trong ngày này mọi nhà đều sắm sửa lễ cúng ông bà, tổ tiên …, đây là dịp có những thứ hoa quả, hạt đầu mùa mà con cháu dâng cúng tổ tiên, đây cũng là những sản phẩm để đi biếu nhạc phụ, nhạc mẫu tương lai, đi tết thầy học và là dịp để tỏ lòng biết ơn, đáp nghĩa.
– Tết Trung Nguyên (Rằm tháng 7)
Với đạo Phật đây là ngày lễ Vu Lan, ngày báo hiếu cha mẹ. Trong ngày này những người con trong gia đình dành cho các bậc sinh thành những món quà ý nghĩa nhất để tỏ lòng hiếu thảo, đây là một tập tục tốt đẹp của dân tộc có xu hướng phát triển rộng ở Bến Lức ta trong những năm gần đây .
– Tết Trung Thu (Rằm tháng 8)
Còn gọi là Tết trẻ con, đây là dịp để thể hiện lòng thương yêu con trẻ 1 cách cụ thể và cũng là dịp để dâng cúng tổ tiên, kính biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, ân nhân…Hàng năm cứ đến ngày này lãnh đạo các cấp từ huyện đến xã rất quan tâm và đều tổ chức cho các cháu vui chơi, nhất là các cháu có hoàn cảnh khó khăn đều có quà và được tổ chức vui chơi tại cộng đồng. Lãnh đạo huyện cũng đã phân công Cán bộ, lãnh đạo các ngành, đoàn thể đến dự cùng các em ở từng cơ sở trong huyện.
– Phong tục lễ Kỵ nhật, Hỷ, Sóc, Vọng
+ Ngày Sóc, Vọng hàng tháng
Ngày Sóc (mùng một) Ngày Vọng (ngày rằm) hàng tháng các gia đình thường quét dọn bàn thờ, sắm hương hoa quả dâng tổ tiên và gia thần. Đây là ngày tưởng nhớ ông bà, tổ tiên là những ngày chay tịnh để sửa mình, những hành động bất thiện, những nghề nghiệp thấp kém đều hạn chế hoạt động trong những ngày này.
+ Ngày Kỵ nhật gia tiên
Tức là ngày giỗ người thân trong gia đình, lễ thức này có ý nghĩa là đạo làm con, cháu phải biết phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống và phụng thờ khi đã mất để tưởng nhớ về cội nguồn, lễ thức này đời đời phải tuân thủ, tự giác thực hiện.
+ Lễ động thổ và khánh thành nhà ở hoặc cửa hiệu, phân xưởng …
Đây là lễ thức khá phổ biến vì dân gian cho rằng “ Đất có thổ công, sông có hà bá” do vậy khi thiết kế 1 công trình hay khánh thành cơ sở làm ăn, nhà ở…đều có lễ kêu cầu để công việc được trôi chảy.
+ Lễ cưới gã
Con người là thành viên của gia đình, mỗi gia đình đều có gốc gát, tổ tiên cội nguồn, vì vậy mỗi gia đình khi có con đến tuổi dựng vợ gả chồng thì phải thông qua dòng họ, làm lễ kính cáo gia tiên, gia thần cho sự tác thành được viên mãn.
b/ Các lễ hội truyền thống:
Bến Lức chỉ còn phổ biến 4 lễ hội đó là cúng Đình, Miếu, Đền và Việc lề với số lượng hiện có là 51 lễ hội dân gian truyền thống diễn ra ở 41 điểm, các lễ hội truyền thống ở Bến Lức có chung đặc điểm là không có lễ hội nào đủ điều kiện xếp loại * ( là những lễ hội phải hội đủ các thành tố như: tục hèm hoặc có diễn xướng mô tả lại thần tích; có đình, đền hoặc miếu thờ; có sắc phong; có thần phả; có rước, có tế; có nhạc Bát âm; có múa hát; có trò chơi dân gian; có lễ vật đặc biệt; đọc sớ bằng chữ nho), có 2 lễ hội xếp loại A ( có 6 trong 10 thành tố trên đó là lễ Kì Yên tại đình Phước Tĩnh – Long Hiệp và đình Long Phú – TT BL) còn lại được xếp loại B ( có tổ chức lễ hội nhưng không có rước ). Nhìn chung các lễ hội tuy được tổ chức trọng thể nhưng về mặt qui mô vẫn ở mức trung bình, nghi thức chưa đầy đủ nên toàn bộ lễ hội Bến Lức vẫn là hội lệ
– Lễ cúng đình
Ở Bến Lức hiện có 29 đình tọa lạc trên 11 xã, duy chỉ các xã : Bình Đức, Thạnh Hòa, Lương Hòa, Tân Hòa là hiện không có đình (đây là những xã mới tách ra sau này).Qua khảo sát thực tế ở Bến Lức thì hiện có 4 đình hiện còn lưu giữ đạo sắc phong thần của vua gồm các đình: Phước Tĩnh (Long Hiệp), Bình Nhựt, Bình Chánh (Nhựt Chánh), riêng đình Long Phú (Thị trấn Bến Lức) hiện còn lưu giữ 2 sắc thần, tất cả đều là sắc Tự Đức ngũ niên ( 1852 tháng 11 ngày 29). Các lễ thức cúng đình trước đây rất phong phú, nhưng đến nay do 1 số lễ thức không còn thích hợp với điều kiện sống mới nên dần mai một chỉ còn lại phổ biến 3 lễ cúng bắt buộc trong năm đó là:
+ Lễ Hạ Điền (tịch điền) được tổ chức vào đầu mùa mưa, vào tháng 04 âm lích,
+ Lễ Cầu Bông được tổ chức vào cuối mùa mưa vào tháng 10 âm lịch
+ Lễ Kỳ Yên hay lễ Cầu An, còn gọi là lễ vía Thành Hoàng, đây là lễ lớn nhất trong năm, lễ này được tổ chức không thống nhất thời gian, tùy mỗi nơi có ấn định riêng trong các tháng 12 đến tháng 3 âm lịch
– Lễ Giỗ Nguyễn Trung Trực:
Lễ hội được tổ chức trong 2 ngày (26 và 27/8 âm lịch) tại bia Nguyễn Trung Trực thuộc Di tích Xóm Nghề, ấp 1 xã Thạnh Đức.
– Lễ cúng miếu
Miếu là nơi để thờ các thần bản địa, nhất là thờ Mẫu (thần không gian). Qua khảo sát hiện có 15 ngôi miếu qui mô tương đối lớn có 12 miếu thờ Bà, 3 miếu thờ kiến họ : miếu Bà Ngũ Hành (Thị trấn Bến Lức, Voi Lá, Ấp 5 Tân Bửu, Ấp 3, ấp 1B, 1A – An Thạnh, Ấp 3 – Thạnh Đức ), miếu Bà Cố Hỷ nằm cạnh hương lộ 10 thuộc ấp Thanh Hiệp xã Thanh Phú, miếu thờ Thiên Y Thánh Mẫu – Tấn Long, Bà Chúa Xứ ở ấp 5 An Thạnh, Ấp 4, ấp 1 – Thạnh Hòa, các lễ thức cúng ở các miếu tổ chức trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch.
– Lễ cúng Đền:
Ở Bến Lức có 3 Đền mà nhân dân quen gọi là chùa Ông (thực ra cách gọi đó là sai, bởi chùa là nơi để thờ Phật). Trong năm có 2 ngày lễ vía Ông đó là : Vía sinh 13/01 âm lịch và Vía tử ngày 24/6 âm lịch (có lẽ do sự nhầm lẫn nên từ trước đến nay ở các Đền thờ Ông tại Bến Lức đều tổ chức lễ Vía tử vào ngày 13/05 âm lịch hàng năm )
– Lễ cúng Việc Lề
Đây là dạng tín ngưỡng mang đậm dấu ấn thời khai hoang mà hầu như chỉ phổ biến ở nông thôn Nam Bộ, lễ cúng này có tên khác là: cúng Vật lề, cung lề, giỗ hội, hiệp kỵ. Tùy theo kiến họ mà ngày tháng, cách cúng và vật cúng có khác nhau đôi chút nhưng chung một ý nghĩa nói lên đạo lý uống nước nhớ nguồn trọnh tình nghĩa của người dân Nam Bộ. Ở Bến Lức có 3 kiến họ tổ chức cúng Việc lề hàng năm với qui mô khá lớn, không chỉ ở trong phạm vi gia đình, dòng họ mà tổ chức ở miếu riêng, người tham dự có tính cộng đồng ( kiến họ Phạm ở Tân Bửu, họ Lê ở Thanh Phú, họ Đặng ở Thạnh Hòa )
Ý nghĩa chung của các lễ hội truyền thống đó là ước vọng mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, gia đạo hưng long. Hướng về cội nguồn, biểu dương và cố kết sức mạnh cộng đồng, thỏa mãn và cân bằng nhu cầu đời sống tâm linh, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa nghệ thuật, là bảo tàng sống của văn hóa Việt Nam
III/ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA QUẦN CHÚNG Ở BẾN LỨC TỪ 1975 ĐẾN 2012
1/ Giai đoạn 1975 – 1985
Đây là giai đoạn thời bao cấp, nhằm để đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân, ngoài các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của nhà nước thường xuyên tổ chức phục vụ nhân dân thì huyện nhà Bến Lức cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc xây dựng được 1 phong trào văn hóa – văn nghệ quần chúng rộng khắp sôi nổi tận các đơn vị xã, ấp. Các đội văn nghệ nghiệp dư được hình thành ở nhiều cơ sở, hệ thống các sân bóng đá đều có ở các xã, góp phần tạo nên 1 không khí sinh hoạt văn hóa – thể dục thể thao vui tươi lành mạnh ở nông thôn.
Đầu những năm 1980, Bộ VHTT đã có chủ trương Xây dựng Đời sống văn hóa ở cơ sở theo mô hình lấy xã, phường là đơn vị cơ sở và lấy 06 mặt hoạt động như: Thông tin cổ động; Văn nghệ quần chúng; Bảo tàng và giáo dục truyền thống; Thư viện và phòng đọc sách; Nhà văn hóa và Câu lạc bộ; Xây dựng nếp sống mới làm nội dung và lấy cơ chế tập thể hóa, nhà nước hóa và bán chuyên nghiệp của nhà nước làm phương thức xây dựng, mọi hoạt động VH được nhà nước và tập thể bao cấp. Với chủ trương trên, huyện Bến Lức đã tập trung xây dựng các thiết chế văn hóa cấp huyện tương đối qui mô như : Đội thông tin lưu động (có cả đội chiếu phim lưu động và văn nghệ quần chúng ); nhà truyền thống với rất nhiều hiện vật trưng bày, nhà sách, thư viện huyện và cùng với hệ thống thư viện các trường học, các ngành với số đầu sách, phong phú, đa dạng; nhà văn hóa huyện và hệ thống sân bóng đá từ huyện đến các xã (14 sân bóng) cùng với hệ thống đài truyền thanh. Tất cả các thiết chế trên cùng với sự bao cấp của nhà nước đã phát huy tối đa vai trò chức năng của mình trong việc thường xuyên tổ chức các hoạt động để phục vụ nhân dân trong huyện nhất là các xã vùng sâu. Các CLB văn hóa- nghệ thuật trực thuộc Nhà văn hóa được thành lập đi vào hoạt động sôi nổi, lôi kéo và thúc đẩy các phong trào ở cơ sở xã, ấp phát triển với khí thế sôi nổi, riêng Nhà truyền thống với nhiều hiện vật sưu tầm và trưng bày là địa chỉ đỏ cho học sinh các trường học đến tham quan qua đó giáo dục lòng tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của quê hương Bến Lức anh hùng.
2/ Giai đoạn 1985 – 2000
Đến sau những năm 1986, do có sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, các thiết chế văn hóa hoạt động theo mô hình cũ không còn phù hợp, có thể nói đây là giai đoạn khó khăn nhất trong công tác xây dựng đời sống văn hóa của huyện.
3/ Giai đoạn 2000 – 2012
Từ năm 1998 huyện đã bắt đầu triển khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư ” theo tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa VIII . Qua 12 năm triển khai thực hiện đến nay công tác xây dựng đời sống văn hóa của huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau:
a/ Hoạt động sự nghiệp VH – TDTT, Bảo tàng – Bảo tồn và Thư viện.
– Tháng 12/2003, khánh thành Trung tâm Văn hóa – Thông tin huyện kinh phí đầu tư giai đoạn 1 trên 5 tỷ đồng với những trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng khá đầy đủ (đây là thiết chế VH đầu tiên của tỉnh được xây dựng và hoạt động theo mô hình mới của Bộ ngay thời điểm năm 2003), với chức năng tổng hợp gồm các hoạt động sự nghiệp như: Văn hóa quần chúng, Thư viện, Bảo tồn bảo tàng: TT cổ động; Vui chơi giải trí… và với điều kiện cơ sở vật chất đã được đầu tư, Trung tâm VH – TT huyện đã dần đi vào hoạt động ổn định thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, từng bước đáp ứng nhu cầu đa dạng về tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong huyện, định hướng và hỗ trợ tốt các hoạt động nghiệp vụ cho phong trào văn hóa quần chúng cơ sở, có nhiều mô hình hoạt động mới tiêu biểu của tỉnh. Cùng với hệ thống hoạt động các loại hình dịch vụ văn hóa như: Internet, kinh doanh băng đĩa, Karaoke, các tụ điểm hát với nhau và hoạt động của nhiều nhóm nhạc hiện có trên địa bàn huyện, đã thật sự góp phần đáp ứng tốt nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân.
– Sự nghiệp TDTT phát triển khá tốt, toàn huyện có nhiều CLB như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, quần vợt, dưỡng sinh, điền kinh, võ thuật, điền kinh, thể hình… thường xuyên hoạt động. Với phương thức XH hóa huyện đã kêu gọi đầu tư các CS TDTT hiện có 9 sân bóng đá mini, 3 sân bóng đá lớn, 25 sân bóng chuyền, 8 sân quần vợt, 10 sân cầu lông đạt chuẩn. Với nhiều thành tích cao liên tục trong nhiều năm nên vào năm 2006 Ngành TDTT huyện đã vinh dự đón nhận huân chương Lao động hạng III.
– Sự nghiệp Truyền thanh, sau giai đoạn giải thể hoạt động, đến năm 1996 hệ thống các Đài truyền thanh từ huyện đến các xã, Thị trấn được thành lập, lúc đầu chỉ có chức năng truyền thanh và tiếp sóng đài TW, tỉnh. Đến nay do có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và đội ngũ nên Đài truyền thanh huyện đã sản xuất được chương trình phát sóng phủ toàn huyện, mở rộng và phát triển thêm 120 trạm tiếp sóng các ấp, khu phố, làm tốt nhiệm vụ đưa thông tin về cơ sở, trong đó 70 % được trang bị phương tiện kĩ thuật tiếp và phát sóng tự động.
– Sự nghiệp Bảo tồn – Bảo tàng: Hiện trên toàn huyện có 05 di tích lịch sử được công nhận trong đó :
+ Di tích cấp quốc gia: Di tích Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn
+ Di tích cấp tỉnh: Di tích Đình Mương Trám; di tích Rừng tràm Bà vụ; di tích Tượng đài Bến Lức; Di tích Nhà họp Long Hiệp và di tích Bia Nguyễn Trung Trực.
Ngoài các di tích văn hóa – lịch sử trên, huyện còn có 18 bia ghi danh các anh hùng liệt sĩ ở các xã.
– Sự nghiệp Thư viện: Thư viện huyện có trên 6000 quyển sách, để có nhiều lượt sách đến với bạn đọc, ngoài việc phục vụ bạn đọc tại chỗ, thư viện huyện còn tổ chức thực hiện công tác luân chuyển sách đến các ấp, khu phố văn hóa để phục vụ bà con, cùng với hệ thống thư viện các trường học, các tủ sách pháp luật các xã – thị trấn, hệ thống các nhà sách, đại lý sách báo, các dịch vụ cho thuê sách truyện và hệ thống Bưu điện văn hóa xã (13/15 xã có bưu điện văn hóa) cũng đã góp phần đáp ứng nhu cầu đọc đa dạng của đại bộ phận quần chúng nhân dân trong huyện.
b/ Hoạt động Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Đến thời điểm tháng 12/2012, Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư của huyện đạt được những kết quả cụ thể sau:
– Phong trào Xây dựng Gia đình văn hóa đã có 33.509/34.592 hộ đạt 3 chuẩn gia đình văn hóa chiếm tỷ lệ 96, 96%.
– Phong trào Xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, có 41/41 cơ quan, trường trạm đăng kí và 100% đạt chuẩn văn hóa, riêng khối doanh nghiệp có 81/104 đăng kí và đạt 100%.
– Phong trào Xây dựng ấp (khu phố) văn hóa hiện có 85/101 ấp, khu phố đạt chuẩn văn hóa chiếm 84,2%.
– Phong trào xây dựng xã văn hóa, hiện có 2 xã Mỹ Yên, Phước Lợi đạt chuẩn văn hóa và 2 xã Nhựt Chánh, Thanh Phú tổ chức lễ phát động xây dựng xã văn hóa giai đoạn 2011- 2015.
c/ Thành tích đạt được:
– Năm 2000- 2005 : Tập thể LĐTT, giấy khen của huyện và tỉnh
– Năm 2006 Nhận Huân chương LĐ hạng III trên lĩnh vực sự nghiệp TDTT và bằng khen của UBND tỉnh
– Năm 2007 : Nhận cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh Long An
– Năm 2008 – 2011: Nhận bằng khen của UBND tỉnh.
– Năm 2012: Được Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL tặng bằng khen
IV/ TÔN GIÁO
Ở Bến Lức có 6 tôn giáo du nhập vào rất lâu đời và có một quá trình phát triển đáng chú ý đó là : đạo Phật, Tịnh độ cư sĩ, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành và đạo Hồi với số lượng tín đồ hiện có là 21.530 người, 148 chức sắc, 250 chức việc và 11 nhà tu hành. Các tôn giáo đều có xu hướng đồng hành cùng dân tộc, với chế độ mới vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1/ Đạo Phật
Là 1 trong 6 tôn giáo có nhiều tín đồ và rộng khắp các xã – thị trấn, Phật giáo theo chân những lưu dân vào định cư tại Bến Lức, nhưng phải đến đầu thế kỉ XX thì mới phát triển mạnh. Phật giáo Bến Lức đa phần là phái Bắc Tông (Đại Thừa), ngoài ra còn nhiều hệ tông phái khác như Tịnh Độ Cư Sĩ, Phật Giáo Khất Sĩ, Thiên Thai Tông và Lâm Tế Tông. Tín đồ Phật giáo hiện có 8539 người . Cơ sở thờ tự là 30
Phương châm hành đạo của Phật giáo là : “ Đạo pháp – Dân tộc – CNXH ”
2/ Đạo Thiên Chúa
Đạo Thiên Chúa du nhập vào Bến Lức vào khoảng đầu thế kỉ XIX theo 2 hướng:
– Hướng thứ nhất từ Gia Định – Sài Gòn xuống, vào năm 1884 linh mục Đoàn Công Triệu từ chủng viện Thánh Giuse ở Sài Gòn được cử đến làm cha xứ họ đạo Nha Ràm (1 họ đạo có sớm nhất ở Long An – xã Long Trạch, huyện Cần Đước) từ đây linh mục Triệu đi truyền đạo khắp nơi xung quanh và lập nên nhà thờ Gò Đen (xã Phước Lợi ngày nay).
– Hướng thứ hai từ Họ đạo Ba Giồng (xã Tân Lý Tây – huyện Châu Thành tỉnh Mỹ Tho) lên, năm 1881 linh mục Hồ Biểu Đoan xây dựng nhà thờ Lương Hòa, tiếp 2 năm sau ông lập thêm họ đạo Thủ Đoàn.
Từ đó đạo Thiên chúa phát triển đến nay có 9120 tín đồ và 06 cơ sở thờ tự tập trung các xã: Lương Bình, Lương Hòa, Bình Đức, Thị trấn Bến Lức, Phước Lợi.
Phương châm hành đạo là “ Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” .
3/ Đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài được du nhập và mở đạo vào năm 1925 tại quận Cần Giuộc, 1 số thánh thất được dựng lên ở Tân Kim, Mỹ Lộc (Cần Giuộc), Tân Chánh (Cần Đước), Quý Tây (Bình Chánh), Bình Quới (Châu Thành) và từ đây bắt đầu phát triển mạnh ở các vùng lân cận trong đó có Bến Lức.
Đạo Cao Đài Bến Lức hiện có 4 phái đó là: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh Đạo và Cao Đài Chưa Hoàn Nguyên, đến nay số tín đồ Cao Đài hiện có của huyện là 3365 , có 8 cơ sở thờ tự tập trung các xã : Thị trấn Bến Lức (02), Phước Lợi, Mỹ Yên, Nhựt Chánh ( 2 ), An Thạnh, Long Hiệp.
Phương châm hành đạo là “Nước vinh, đạo sáng”.
4/ Đạo Tin Lành
Tin Lành có mặt ở Long An vào năm 1912, đến năm 1944 nhà thờ Gò Đen (Phước Lợi) được xây dựng và đi vào hoạt động cho đến nay, hiện tín đồ là 450 có 01 cơ sở thờ tự
Phương châm hành đạo là: “Phụng sự Thiên Chúa, Phụng sự Tổ quốc”
5/ Đạo Hồi
Được du nhập vào Bến Lức vào khoảng những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, do Ông Nguyễn Minh Chí (Môhamet Salé) người gốc ở chợ Đệm đã gia nhập Đạo Hồi lấy vợ quê ở ấp 2 xã Tân Bửu, về định cư và bắt đầu truyền đạo, chủ yếu là trong dòng họ thân tộc. Hiện Đạo Hồi tại Tân Bửu có 71 tín đồ. Đặc điểm của cộng đồng Hồi giáo ở đây là cùng cộng cư trong phạm vi hẹp trên bờ sông Bến Lức thuộc ấp 2 xã Tân Bửu, xung quanh tiểu thánh đường Jamia.
6/ Tịnh Độ Cư Sĩ:
Tịnh Độ Cư sĩ có mặt ở Bến Lức vào trước năm 1975, đến năm 2007 được tách ra từ Giáo Hội Phật giáo Việt Nam và hoạt động với tư cách là một tôn giáo độc lập, hiện có 01 Tịnh xá Hưng Phú Tự ( TTBL) với số lượng tín đồ là 580 người.
V / GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO:
1/ Giai đoạn 1975 – 1985
Trước 1975 nạn thất học ở Bến Lức khá trầm trọng, nhưng chỉ trong 1 vài năm sau giải phóng, hệ thống trường lớp đã được nhanh chóng xây dựng đến với các xã, ấp kể cả các xã vùng sâu, vùng xa. Xã nào cũng có trường PTCS ( gồm cấp 1 và 2), hệ thống trường Bổ túc văn hóa hình thành và phát triển khắp từ huyện đến xã, tuy cơ sở vật chất còn ọp ẹp, tre lá tạm bợ nhưng kịp thời đáp ứng được nhu cầu nâng cao dân trí của nhân dân và cán bộ của huyện, xã sau chiến tranh.
Một thành tích nổi bật trong giai đoạn này là tuy trong điều kiện khó khăn nhưng Bến Lức là một trong những huyện hoàn thành sớm nhất việc xóa nạn mù chữ trong nhân dân.
2/ Giai đoạn 1985 – 2000
Huyện đã tập trung sắp xếp, hệ thống lại các ngành bậc học, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất với mục tiêu từng bước kiên cố hóa hệ thống trường lớp, tập trung công tác chuẩn hóa đội ngũ. Qua 5 năm bộ mặt giáo dục của huyện đã có sự thay đổi rõ nét, toàn huyện có trên 70% trường lớp bán kiên cố trở lên, 15 trường Mẫu giáo, 23 trường tiểu học và 10 trường cấp 2, 03 trường cấp 3 (1 công lập và 02 bán công), 01 trường Bổ túc văn hóa huyện, 01 Trung tâm Giáo dục kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề và thí nghiệm thực hành; 01 Trung tâm giới thiệu việc làm, 01 trường Công nhân kĩ thuật.
Thành tích nổi bật trong giai đoạn này là Bến Lức đã hoàn thành công tác Phổ cập giáo dục Tiểu học – Chống mù chữ vào năm 1993, và có 2 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
3/ Giai đoạn 2000 – 2012
Đây là giai đoạn huyện tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện phổ cập giáo dục đúng độ tuổi tiểu học, THCS, Nầm non và THPT với giải pháp như: Thực hiện chủ trương kiên cố hoá trường lớp các ngành, bậc học, chuẩn hóa đội ngũ, đầu tư trang thiết bị kĩ thuật dạy là học, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, tiếp tục triển khai cuộc vận động” Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với đặc thù của ngành là thực hiện cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là 1 tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, và cuộc vận động 2 không và đẩy mạnh phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
a) Số Lượng trường lớp
– Mầm non: 15 trong đó đạt chuẩn mức độ 1 là 06 gồm: MG Hoa Sen , Họa Mi – TTBL, MG An Thạnh, MG Thạnh Lợi, MG Thạnh Hòa, Lương Bình
– Tiểu học: 25 trong đó đạt chuẩn mức độ 1 là 9 gồm: Thuận Đạo ( TTBL ), An Thạnh, Thạnh Đức, Nguyễn Trung Trực ( Thạnh Đức), Long Hiệp, Gò Đen, Mỹ Yên, Tân Bửu, Nguyễn Văn Siêu ( TTBL), 01 trường đạt chuẩn mức độ 2: Mai Thị Non
– THCS : 13 trường trong đó có 3 trường đạt chuẩn mức độ 1: Gò Đen; Nguyễn Trung Trực và Trần Thế Sinh.
b) Thực trạng CSVC:
– Mầm non tỷ lệ kiên cố 1,4 %, bán kiên cố 93,3% và tạm thời 4,7%
– Tiểu học tỷ lệ kiên cố 58,35%, bán kiên cố 40,62%, tạm thời 1,03%
– THCS tỷ lệ kiên cố 64,91% bán kiên cố 35,09%
c) Thực trạng đội ngũ
– Tổng số đội ngũ là 1328, trong đó đại học 629, cao đẳng 433
– Tỷ lệ đạt chuẩn: Mầm non 100%, TH 99,62% và THCS 99,52%
d) Thành tích đạt được:
– Năm 2005 hoàn thành Phổ cập Tiểu học đúng độ tuổi
– Năm 2006 hoàn thành Phổ cập giáo dục Trung học cơ sở
– 08 trường đạt chuẩn quốc gia trong đó Mẫu giáo 02 và Tiểu học 06
– Năm học 2000 – 2001 nhận cờ thi đua xuất sắc
– Năm học 2003 – 2004 nhận cờ thi đua xuất sắc
– Năm học 2006 – 2007 nhận cờ thi đua xuất sắc
– Năm học 2007 – 2008 vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng III
– Năm học 2010 – 2011 Cờ thi đua của tỉnh
– Năm học 2011 – 2012 Tập thể LĐSX
VI/ CON NGƯỜI VÀ CÁC SỰ KIỆN
1/ Các nhân vật lịch sử của huyện Bến Lức
a) Nguyễn Trung Trực (1838 – 1868)
Ông Nguyễn Trung Trực sinh năm 1838 tại thôn Bình Nhựt, tổng Cửu Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) trong một gia đình nhiều đời sinh sống bằng nghề chài lưới.
Năm 1861,ông tham gia lực lượng nghĩa quân chống Pháp. Cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với những chiến công như: tổ chức tấn công đốt tàu Esperance tiêu diệt toán lính Pháp trên Vàm sông Nhựt Tảo; đánh chiếm đồn Rạch Giá, … khi bị địch bắt ông không chịu khuất phục, giặc Pháp đành hành quyết ông tại Rạch Giá, trước khi chết Ông đã khẳng khái tuyên bố như 1 chân lý:
“Bao giờ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây”.
Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đề tặng chiến công oanh liệt của ông như sau:
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần…”.
b) Võ Công Tồn ( 1891 – 1942 )
Là nhân sĩ yêu nước, thường gọi là Hội đồng Tồn. Chính tên Võ Văn Tồn, về sau ông đổi chữ lót là Công, ngụ ý quyết giữ niềm son sắt lo việc chung, công bình chánh trực, quê xã Long Hiệp, tổng Long Hưng Hạ, Chợ Lớn nay thuộc tỉnh Long An. Ông có tấm lòng hào hiệp nhất là với người nghèo, thường đem tài sản hỗ trợ cho những người yêu nước hoạt động, ủng hộ tài chính giúp Đảng Cộng Sản ra báo công khai thời kỳ 1936 – 1939, Ông được Đảng xem là ân nhân và đồng bào kính trọng. Lò Gạch và nhà ở (lẫm lúa)của ông là nơi mà chủ tịch Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn An Ninh đến ở, dạy học, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, lý tưởng cộng sản và giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân lao động nhất là công nhân Lò gạch. Năm Canh Thìn 1940 ông bị bắt giam và đày đi Côn Đảo, năm Nhâm Ngọ 1942, ông mất trên đảo, hưởng dương 50 tuổi.
c) Nguyễn Văn Tạo
Nguyễn Văn Tạo sinh ngày 20/5/1908 tại làng Phước Lợi, tổng Long Hưng Hạ, huyện Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Từ giữa năm 1926, ông tham gia nhiều hoạt động yêu nước. Sau đó ông sang Pháp theo học tại trường Trung học Lycée Mignet và hoạt động cách mạng. Cuối năm 1926 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, đến cuối năm 1927 ông được cử vào làm việc tại Văn Phòng TW Đảng Cộng sản Pháp đến năm 1930 do hoạt động cách mạng tích cực nên Ông bị chính quyền Pháp trục xuất về nước.
Về nước, Ông tiếp tục hoạt động và bị giặc bắt. Đầu năm 1937 sau khi ra tù ông tiếp tục hoạt động cách mạng tại Sài Gòn, và tham gia lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám tại các tỉnh Nam Kỳ và Sài Gòn. Ông là Đại biểu Quốc Hội đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa và được giữ chức Bộ trưởng Bộ Lao động đầu tiên của nước ta, và nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ. Nguyễn Văn Tạo qua đời ngày 16/8/1970 tại Thủ đô Hà Nội sau một cơn đột quỵ.
Năm 2002, Đảng và Nhà nước đã truy tặng cho ông Huân chương Hồ Chí Minh.
d) Nguyễn Hữu Thọ
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, sinh ngày 10/7/1910 tại làng Long Phú, huyện Bến Lức, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Thanh Phú, huyện Bến Lức, tỉnh Long An).
Năm 1921, ông sang Pháp du học và tốt nghiệp cử nhân Luật, từ năm 1939, ông mở Văn phòng Luật sư tại Mỹ Tho,Vĩnh Long, Cần Thơ rồi sau đó chuyển Văn phòng đến Sài Gòn. Năm 1948, ông tham gia Mặt trận Liên Việt, ngày 16/10/1949, ông được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).Tháng 6/1950, thực dân Pháp bắt ông và đưa đi quản thúc tại Lai Châu, Sơn Tây. Tháng 11/1952 ông được trả tự do. Ngày 15/11/1954, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam và một lần nữa ông bị đưa đi quản thúc tại Hải Phòng rồi Phú Yên. Ngày 30/10/1961, ông được nhân dân và các lực lượng vũ trang Phú Yên giải thoát đưa về Trung ương Cục Miền Nam và được bầu làm Chủ tịch Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Từ năm 1962 đến năm 1963, ông được cử làm Chủ tịch Đoàn Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Tháng 6/1969, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Tháng 4/1976, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội thống nhất, sau đó được bầu làm Phó Chủ Tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đến tháng 4/1980 làm Quyền Chủ Tịch Nước rồi Chủ Tịch Quốc Hội. Tại Đại hội Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam lần thứ III (tháng 11/1988) ông được bầu làm Chủ tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Ông mất ngày 25/12/1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Các cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Toàn huyện có 8 cá nhân được nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
a) Anh hùng Lê Văn Vịnh sinh năm 1936, quê ở xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Đồng chí Lê Văn Vịnh vinh dự được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 06 tháng 11 năm 1978, lúc này đồng chí là đảng viên, cấp bậc Thượng úy, chức vụ Huyện đội phó, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đồng chí đã được tặng thưởng :
– 01 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhất.
– 02 Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.
b) Anh hùng Nguyễn Minh Quang (tức Nguyễn Tấn Khoa) sinh năm 1930, quê ở xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An ( hiện còn sống). Đồng chí Nguyễn Minh Quang vinh dự được phong tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” vào ngày 06 tháng 11 năm 1978, lúc ấy đồng chí là đảng viên, Trung tá Phó Chính ủy Trung đoàn, thuộc Sư đoàn 5, Quân khu 7.
Đồng chí đã được tặng thưởng :
– 01 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhất.
– 01 Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.
– Nhiều Bằng khen và Giấy khen của các cấp.
c) Anh hùng Liệt sĩ Trần Thế Sinh (tức Hai Vũ) sinh năm 1940, quê ở xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Khi hy sinh, đồng chí là Chính trị viên Huyện đội Bến Lức, tỉnh Long An.
Với những chiến công xuất sắc trong chiến đấu, đồng chí đã được tặng thưởng
– 03 Huân chương chiến công giải phóng các hạng Nhất, Nhì, Ba.
– 02 lần đạt danh hiệu thi đua toàn tỉnh.
Liệt sĩ Trần Thế Sinh vinh dự được truy tặng danh hiệu : “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, ngày 6 tháng 11 năm 1978,
d) Anh hùng Trần Thị Sữa sinh năm 1945, quê ở xã Thạnh Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An ( hiện còn sống). Ngày 30 tháng 8 năm 1995, đồng chí vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương phong tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, lúc đó đồng chí là đảng viên, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Thủ Thừa, tỉnh Long An.
Đồng chí Trần Thị Sữa đã được tặng thưởng: 01 Huân chương Quyết thắng hạng nhất.
e) Anh hùng Đặng Công Hậu (tức Tư Nam) sinh năm 1934, quê ở xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An 9 hiện còn sống ). Ngày 22 tháng 7 năm 1998, đồng chí vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương phong tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, lúc đó đồng chí là đảng viên cán bộ hưu trí.
Đồng chí Đặng Công Hậu đã được Nhà nước tặng thưởng:
– 01 Huân chương Quân công hạng nhì;
– 01 Huân chương kháng chiến hạng nhất,
– 01 Huân chương Quyết thắng hạng nhất,
– 01 Huân chương chiến thắng hạng nhất và nhiều Huy chương, Bằng khen của các cấp.
f) Anh hùng Liệt sĩ Mai Thị Non sinh năm 1951, quê ở xã Long Hiệp, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, chiến sĩ trinh sát Ban An ninh huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Ngày 29 tháng 01 năm 1996, Liệt sĩ Mai Thị Non vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương truy tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”
g) Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Minh Trung (tức Nguyễn Văn Chư) sinh năm 1934, quê quán xã Long Hiệp, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ trinh sát, thuộc đơn vị Đội 4 Công an xung phong, Ty Công an tỉnh Chợ Lớn cũ, nay là tỉnh Long An.
Ngày 29 tháng 7 năm 1996, Liệt sĩ Nguyễn Minh Trung vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương truy tặng danh hiệu : “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”
h) Anh hùng Phạm Văn Ngũ sinh năm 1954, quê ở xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ trinh sát mật, thuộc đơn vị Huyện đội Bến Lức, tỉnh Long An.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, ngày 28 tháng 4 năm 2000, Liệt sĩ Phạm Văn Ngũ vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương truy tặng danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”
3/ Toàn huyện Bến Lức có:
– 182 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, hiện còn sống 14 mẹ
– 2.724 liệt sĩ
– 2.620 hộ gia đình có công với nước
4/ Thành tích của huyện và các xã, Thị trấn trong công cuộc kháng chiến và thời kì Xây dựng, bảo vệ tổ quốc của Huyện Bến Lức.
a/ Thành tích của huyện
– ND và cán bộ huyện Bến Lức được nhà nước tặng huân chương lao động hạng III về thành tích xuất sắc trong sự nghiệp Giáo dục góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc ( QĐ:44 – LCT ngày 20/3/1979)
– ND và CB huyện Bến Lức được nhà nước tặng huân chương Lao động hạng III về thành tích đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp và làm nghĩa vụ lương thực năm 1979
– Được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tặng cờ Huyện Đảng bộ trong sạch vững mạnh năm 1980 – 1981.
– Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Bến Lức được nhà nước thưởng Huân chương Chiến công hạng I, ngày 27/11/1990
– Nhân dân và cán bộ huyện Bến Lức được nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng II về thành tích xuất sắc trong cải tạo phát triển KT – XH vùng đồng bằng sông Cửu Long từ năm 75 – 95 ( QĐ số 1095 – KT- CT ngày 12/12/1996)
– Nhân dân và cán bộ huyện Bến Lức được nhà nước tặng huân chương Lao động hạng III về thành tích xuất sắc phát triển KT – XH từ 94 – 98 ( QĐ số: 260 – KT – CT ngày 05/8/99 )
– Hội đồng nhân dân huyện Bến Lức được nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng III, nhiệm kỳ 1996 – 2000 ( QĐ số 13 – KT-CT ngày 20/1/2000)
– Huân chương LĐ hạng I về thành tích xuất sắc thực hiện nghĩa vụ của địa phương 99- 2003 ( QĐ 621 – QĐ – CTN – ngày 8/9/2004 )
b/ Các đơn vị được nhà nước tuyên dương Anh hùng
TT Đơn vị Số QĐ
Ngày ký
01
A/ Anh hùng lực lượng vũ trang
Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Bến Lức
358/KT.CTN
20/12/1994
02 Ban An ninh và Nhân dân huyện Bến Lức 758/KT.CTN 29/01/1996 03 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã An thạnh Năm 1977 04 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Tân Bửu 358/KT.CTN 20/12/1994 05 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Mỹ Yên 358/KT.CTN 20/12/1994 06 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Bình Đức 758/KT.CTN 29/01/1996 07 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Thạnh Lợi 424/KT.CTN 22/8/1998 08 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Thanh Phú 424/KT.CTN 22/8/1998 09 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Nhựt Chánh 203/KT.CTN 11/6/1999 10 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Long Hiệp 634/KT.CTN 24/6/2005 11 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Phước Lợi 634/KT.CTN 24/6/2005 12 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân Xã Lương Hòa 634/KT.CTN 24/6/2005 13 Nhân dân và LLVT nhân dân TTBL 738/QĐ.CTN 28/5/2010 B/ Anh hùng lao động trong thời kì đổi mới 01 Trường TH Mai Thị Non 1008-QĐ-CTN 7/9/2005 02 ND và CB huyện Bến Lức 1538/QĐ-CTN 11/9/2010
DI TÍCH – DANH THẮNG
A/ TRUYỀN THUYẾT, ĐỊA DANH VÀ THẮNG CẢNH
I/ Xóm nghề:
Xóm nghề thuộc thôn Bình Nhựt xưa, nay thuộc ấp 1. Gọi xóm nghề gì nơi đây xưa làm nghề chài lưới đánh bắt cá. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ra đời ở Xóm nghề này năm 1838.
II/ Rạch Mương Trám ( xã Thạnh Lợi )
Con rạch chạy trên địa phạn ấp 5 xã Thạnh Lợi ra Vàm Cỏ Đông. Theo các bậc cao niên ở địa phương , xưa là rạch Mương Tràm vì có nhiều tràm mọc bít cả lối đi của nghe xuồng nên gọi là “ trám ” ( bít, trám chỗ ). Cạnh rạch có ngôi đình Mương Trám ( đình làng Xương Thạnh ), địa điểm di tích lịch sử cấp tỉnh
III/ Lò Gạch ( xã Long Hiệp )
Ông Võ Công Tồn, một đại điền chủ yêu nước thời kỳ tiền cách mạng, là một cơ sở lớn của ta. Tại ấp Lò Gạch hiện nay, Ông cho xây một lò gạch để kinh doanh làm nguồn kinh phí giúp đỡ phong trào yêu nước và cách mạng. Lò Gạch nay là một trong cụm di tích lịch sử cấp Quốc gia, ngày 16/11/2011 sau gần 6 tháng thi công khu bia tưởng niệm di tích lò gạch được khánh thành trong khuôn viên 300 m2, với tổng kinh phí trên 500 triệu đồng.
IV/ Ba Cụm ( xã Tân Bửu )
Nơi có 3 cây da to nằm chỗ giáp nước, ngã tư sông Bến Lức và 2 con rạch Ba Cụm và rạch Khai. Đây là nơi ghe thuyền đậu chờ con nước tranh thủ buôn bán trao đổi, từ đó hình thành chợ Ba Cụm. Lợi dung nơi buôn bán đông đúc, bọn trộm cắp tụ về đây hoạt động. Danh từ “ Bối Ba Cụm ” ra đời từ đó ( Bói tiếng lóng chỉ bọn trộm cướp ). Đây cũng là nơi có nhiều lò võ nổi tiếng một thờ, là nơi tụ h5p của giới giang hồ tứ chiếng, Bối Ba Cụm vang danh khắp Nam kỳ lục tỉnh
V/ Bến Lức ( TT Bến Lức )
Bến cặp ghe, xuồng bên sông Vàm Cỏ Đông ( dưới chân Cầu Bến Lức nay ), nơi xưa có nhiều cây Lứt mọc, do cách phát âm từ lứt thành lức mãi thành quen và mặc nhiên tồn tại trong văn bản. tên địa danh thành chợ ( xưa chợ Bến Lức là chợ Phước Tú) rồi thành địa danh hành chính huyện như bây giờ.
VI/ Gò Đen ( xã Phước Lợi )
Nơi này xưa lưu dân đến khai phá, trong quá trình đào giếng lấy nước ngọt, thường gặp một lớp đất đen dày hàng mét, từ đó đặt tên là Gò Đen. Ngày nay ngành địa chất cũng xác định điều này, nơi đây nổi tiếng với rượu đế Gò Đen, sở dĩ có tên là rượu đế bởi lúc đương thời thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền về sản và phân phối rượu, nhưng rượu của chúng không hợp khẩu vị với dân ta, nên tại đây dân ta tổ chức nấu rượu lén lút khi đêm về, và nấu ở những đám Đế gần nhà ( đế là loài cỏ dại, thân cao, khu vực này xưa có nhiều đế mọc um tùm ) và gọi là rượu Đế vì loại rượu này được nấu trong những đám Đế.
VII/ Rừng Tràm Bà Vụ ( xã Tân Hòa )
Thuộc chiến khu Vườn thơm – Bà Vụ ( thuộc Đức Hòa và Bến Lức ). Theo dân gian, nơi đây xưa ở đầu kênh có một người phụ nữ bán quán rượu. Do cách phát âm không chuẩn của người Nam Bộ nên thành kênh Bà Vụ, rừng tràm Bà Vụ là một điểm di tích lịch sử.
VIII/ Nước Mục ( xã Lương Hòa )
Tên con rạch chảy tư rừng tràm Bà Vụ ra Vàm Cỏ Đông tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Lương Hòa và An Thạnh. Xưa nơi đây là rừng tràm, mùa mưa lá rụng trộn vào rạch nghẻn cả lối đi của ghe xuồng nên gọi là nước mục. Thời khai phá nơi đây từng là nơi cư trú của bọn giang hồ thảo khấu. Thời kháng chiến chống Pháp, nơi đây là cửa ngõ đi lại của chiến khu Vườn thơm. Kháng chiến chống Mỹ đây từng là căn cứ du kích, sau ngày giải phóng từng có một nông trường quốc doanh do quân đội quản lý mang tên nông trường Nước Mục
B . DI TÍCH LỊCH SỬ
I/ “NHÀ HỌP LONG HIỆP” ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP
TỈNH ỦY ĐẦU TIÊN TỈNH CHỢ LỚN THÁNG 11 NĂM 1930
(Ấp Long Bình, xã Long Hiệp – huyện Bến Lức – tỉnh Long An)
1./ Tên gọi di tích:
Nhà Long Hiệp là ngôi nhà ba gian có kiến trúc kiểu xưa thuộc ấp Long Bình xã Long Hiệp huyện Bến Lức tỉnh Long An. Trước đây là nhà của ông Nguyễn Văn Triều (thường gọi là thuộc Viên Triều hay Cai Tổng Chèo) xây nên để ở vào giữa thế kỷ XIX. Tháng 11 năm 1930 tình hình thuận lợi cho việc thành lập Tỉnh Ủy thì ngôi nhà này đáp ứng được những điều kiện đển tiến hành cuộc họp bí mật. Đảng xét thấy đây là cơ sở địa phương nhà gốc địa chủ là Hội Đồng Chèo, lại là quan chức được giác ngộ cách mạng là ông Xã Nguyễn Tấn Tảo nên địch sẽ không dòm ngó, chính vì thế Đảng đã lấy địa điểm này tiến hành cuộc họp. Thời Pháp thuộc chỉ những đồng chí lãnh đạo Đảng mới biết đây là nơi họp thành lập Tỉnh Ủy Chợ Lớn. Nhân dân chỉ gọi là nhà Cai Tổng Chèo rồi nhà ông Xã Tảo.
Sau năm 1975 đất nước thống nhất, thì mọi người gọi là nhà Long Hiệp để ghi nhớ ngôi nhà này của địa phương Long Hiệp là nơi họp thành lập Tỉnh Ủy đầu tiên Tỉnh Chợ Lớn tháng 11 năm 1930.
2./ Địa điểm di tích.
Địa điểm phân bố: Nhà Long Hiệp nằm ở hướng Đông Bắc thị xã Tân An thuộc ấp Long Bình xã Long Hiệp huyện Bến Lức tỉnh Long An.
2.2) Đường đi đến di tích:
Di tích nhà Long Hiệp nằm về hướng Đông Bắc Tân An cách thị xã Tân An (Long An) 20 km con đường chính đến di tích : từ thành phố Tân An theo quốc lộ 1 về hướng TP. Hồ Chí Minh 18km là đến ngã ba Long Hiệp (Cây số 1929) đi lên khoảng 600m là đến UBND Xã Long Hiệp đi tiếp khoảng 70m là đến Hương lộ Long Bình nằm bên trái. Theo Hương lộ Long Bình đi tiếp 1,3km thì bên phải có đài tưởng niệm và mộ của ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Tấn Đệ quẹo vào gần 100m là đến di tích.
3./ Sự kiện và nhân vật lịch sử.
Nói đến Long Hiệp ai ai cũng nghĩ ngay đến Nhà Long Hiệp, niềm tự hào của nhân dân và Đảng Bộ huyện Bến Lức nói riêng và Tỉnh Long An nói chung, khi nơi này vào tháng 11 năm 1930 là nơi thành lập Tỉnh Ủy đầu tiên Tỉnh Chợ Lớn. Trung Quận, là quận lớn của tỉnh Chợ Lớn là cửa ngỏ của Chợ Lớn Sài Gòn, trung tâm đầu não kinh tế chính trị của thực dân Pháp. Với vị trí địa lý như thế và là một vùng có kinh tế phát triển kết hợp với truyền thống oanh liệt của ông cha thưở trước đã tạo cho Trung Quận-Chợ Lớn sớm có một phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng trong những ngày đầu kháng Pháp, ngay từ khi chưa có Đảng những phong trào yêu nước như Thiên Địa Hội, Phong trào Đông Du, Duy Tân, Hội Kín Nguyễn An Ninh đều có sự góp mặt của Trung Quận Chợ Lớn.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, tình hình đấu tranh cách mạng ở Trung Quận Chợ Lớn bắt đầu có sự chuyển biến mạnh mẽ ở Trung Quận sự hợp nhất dược thực hiện trong tháng 4/1930 đó là chi bộ các làng Long Phú, Long Hiệp, Tân Bửu, An Thạnh…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào cách mạng tại tỉnh Chợ Lớn ngày càng lên cao tiêu biểu là những cuộc biểu tình của quần chúng nhân dân lao động, có truyền đơn, biểu ngữ nổi dậy ở các nơi trong tỉnh đòi quyền lợi “Dân sinh dân chủ” trả ruộng đất cho người nghèo và ủng hộ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Trong tình thế đó Đảng chủ trương phát động một phong trào đấu tranh rộng lớn trong tỉnh nhằm ủng hộ ngày Quốc tế lao động 1/5. Lập tức quần chúng nhân dân Trung Quận đấu tranh đòi tăng mức công gặt lúa từ 12 bó ăn một xuống 10 bó ăn một. Ngoài ra bà con nông dân đòi gánh lúa, đập lúa cho chủ phải có cơm chiều, kết quả các yêu sách của nhân dân được chấp nhận. Các cuộc đấu tranh chống sưu cao thuế nặng nhân ngày 1/5 của nhân dân Trung Quận Chợ Lớn đã làm nức lòng và tăng thêm niềm tin cho phong trào cách mạng trong những ngày đầu Đảng mới lãnh đạo.
Phong trào thực sự mạnh mẽ và dâng trào khi ngày 31/5/1930 đồng chí Ngô Gia Tự Bí thư xứ Ủy Nam Kỳ bị địch bắt. Trước tình hình này, Xứ Ủy Nam Kỳ cử Đồng chí Lê Quang Sung (xứ ủy viên) và nữ đồng chí Nguyễn Thị Nhỏ về phụ trách phong trào cách mạng ở tỉnh Chợ Lớn.
Thời gian này dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân toàn Nam Kỳ biểu tình khắp nơi làm thực dân Pháp rất hoang mang lo sợ. Bấy giờ đồng chí Châu Văn Liêm phụ trách liên Tỉnh Ủy Chợ Lớn nhất loạt cùng một ngày tổ chức ba cuộc biểu tình lớn Đức Hòa, Hóc Môn, Bà Hom để chia lửa với Long Xuyên, Cao Lãnh (nơi vừa diễn ra cuộc biểu tình 1000 người bị thực dân Pháp đàn áp dã man).
Đó là ngày 4/6/1930 cuộc biểu tình của hơn 5000 người dưới sự dẫn đầu của đồng chí Châu Văn Liêm kéo về đấu tranh tại quận Đức Hòa. Đây là cuộc biểu dương lực lượng lớn chưa từng có cho đến lúc ấy ở Nam Kỳ nói chung và Chợ Lớn nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng với bao cuộc biểu tình ở Đức Hòa, Hóc Môn, Bà Hom cũng rạng ngày 4 và 5/6/1930 gần 5000 đồng bào ở các xã Tân Bửu, Mỹ Yên, Long Hiệp, Phước Lợi, Long Phú, An Thạnh, Thanh Hà của quận Trung Quận hăng hái tham gia dưới sự lãnh đạo của các Chi bộ, phần đông là nông dân có cả phụ nữ và trẻ em với các thành phần khác nô nức xuống đường giương cờ đỏ búa liềm giăng khẩu hiệu “giảm thuế thân” kéo về chợ Bến Lức.
Ngoài 2 cuộc đấu tranh ở Đức Hòa và Trung Quận với qui mô hàng ngàn người, còn có những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân Tân Kiên, Tân Tạo, Tân Nhựt do đồng chí Nguyễn Văn Thế lãnh đạo 500 người, của nhân dân An Phú Tây khoảng 150 người, nhân dân Bình Trị Đông và Tân Túc khoảng 400 người.
Đợt đấu tranh ngày 1/5 đòi giảm thuế tạm thời lắng xuống thì đến đầu tháng 7 những cuộc đấu tranh mới lại bùng nổ khắp nơi trong địa bàn Chợ Lớn.
Đêm 30/6/1930 cuộc diệt tề xảy ra ở Hựu Thạnh (Đức Hòa) và Thạnh Lợi (Thủ Thừa). Đoàn biểu tình chuẩn bị gậy và búa xông vào nhà Việc Hựu Thạnh đập phá đốt sách rồi kéo thẳng đến nhà Hương Cả Nguyễn Văn Dương bao vây và bắt được tên này. Xong lại kéo đến bắt hương quản Võ Văn Mây đưa chúng trở lại nhà Việc làng thì trừng trị của hai tên.
Đầu tháng 7/1730 được sự chỉ đạo của Tổng Ủy Long Hựu Hạ hơn 100 người được tự vệ thuộc các làng Long Hiệp, Long Phú, Phước Vân, Long Định phối hợp tổ chức mít tinh ở cầu Tổng Điêu (cầu ông Tổng) kéo đến công sở Phước Vân, lần này tổ chức ban đêm, bố trí sẵn sàng, hô vang khẩu hiệu “đã đảo thực dân Pháp, tịch ký ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, đã đảo quan làng” tới công sở quần chúng xông vào đập phá bàn tủ, đốt sạch sổ sách, hồ sơ rồi rút lui êm gọn.
Hai lần thắng lợi trên dưới sự lãnh đạo của các Chi bộ địa phương đã làm cho nhân dân hết sức phấn khởi, bọn địch hết sức hoang mang.
Để thực hiện lời kêu gọi của Đảng hướng về cách mạng tháng 10 Nga và ủng hộ nhân dân Nghệ An – Hà Tĩnh, các chi bộ Đảng ở tỉnh Chợ Lớn lại lãnh đạo quần chúng nhân dân xuống đường đấu tranh dưới nhiều hình thức phong phú mới. Cuộc biểu tình tháng 7/1930 thu được kết quả, Tổng Ủy Long Hựu hạ quyết định tổ chức cuộc biểu tình vào tháng 8/1930, thêm 200 người thuộc các làng Long Hiệp, Long Định, Long Phú kéo ra ngã ba Long Kim hô vang khẩu hiệu “đã đảo hội đồng cải cách của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long tay sai Pháp”. Đoàn đi đến cầu Long Kim ngang nhà tên cả Ngói – một ác ôn két tiếng thì càng hô dữ dội, hàng ngũ mỗi lúc càng đông có cả những người là tư sản và địa chủ.
Cuộc biểu tình trên vạch trần tổ chức yêu nước giả hiệu của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long đạt được kết quả.
Tháng 9/1930 nhiều nơi trong tỉnh Chợ Lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng lại nổi lên diệt tề. Ở Đức Hòa bắn gãy tay hương cả Nam, làng Tân Túc (Bà Hom) giết chết hương quản Truột, làng Bình Trị Đông giết chết hương quản Trâu.
Đêm 7/11/1930 truyền đơn khẩu hiệu cách mạng Tháng 10 và các khẩu hiệu khác đòi tự do dân chủ lại xuất hiện trong các nẻo đường thuộc thị trấn Cần Giuộc (tỉnh Chợ Lớn). Đặc biệt ngay trong đêm ấy bất chấp sự khủng bố của địch cờ đỏ búa liềm cũng đã xuất hiện trước cửa dinh phủ Tấn. Tin lá cờ đỏ búa liềm nhanh chóng truyền đi khắp nơi trong quận đem đến cho nhân dân sự phấn khởi và niềm tin tưởng lớn lao vào đường lối lãnh đạo của Đảng. Thực tế phong trào đấu tranh cho thấy Đảng Cộng Sản Việt nam vừa mới ra đời lại tổ chức và lãnh đạo những cuộc đấu tranh với hàng 5, 7 ngàn người. Điều đó cho thấy Đảng đã chứng tỏ được khả năng tập hợp quần chúng lớn lao, nhất là nông dân. Đây là điều kiện kiên quyết cho việc dùng bạo lực cách mạng cướp chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng sau này.
Đảng bộ các cấp ở tỉnh Chợ lớn đã lớn lên qua những phong trào đấu tranh đó. Chỉ trong vòng hơn nửa năm kể từ ngày Đảng được thành lập, phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân ở tỉnh Chợ Lớn, điển hình là những cuộc biểu tình hàng vạn người cho ta thấy bước đầu quần chúng đã lĩnh hội được tư tưởng và phương pháp cách mạng của Đảng. Bằng những cuộc đấu tranh đó phong trào dã hạ uy thế chính quyền thực dân phong kiến ở cấp làng, xã và cả cấp quận. Qua đó đã để lại sự tin tưởng hơn nữa của giai cấp nông dân vào khả năng lãnh đạo của Đảng.
Trong hoàn cảnh đó, mà thực tế phong trào đấu tranh đã phản ánh đến lúc đòi hỏi phải có một tổ chức Đảng cấp tỉnh làm đầu não để lãnh đạo phong trào.
Thấy được tình hình chủ quan và khách quan thuận lợi trên, tháng 11/1930 thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, đ/c Lê Quang Sung từ Đức Hòa về Trung Quận triệu tập hội nghị thành lập Tỉnh Ủy tỉnh Chợ Lớn.
Làng Long Hiệp được vinh dự lớn là địa phương được chọn làm nơi ra đời của Tỉnh Ủy đầu tiên của tỉnh Chợ Lớn ( nay là Long An). Sự kiện lịch sử trọng đại này xảy ra vào mùa lúa cuối tháng 11/1930 tại nhà ông Nguyễn Tấn Tảo (xã Tào, làng Long Hiệp Tổng Long Hựu Hạ, Trung Quận Chợ Lớn. Nay thuộc ấp Long Bình xã Long Hiệp huyện Bến Lức tỉnh Long An). Các đồng chí lãnh đạo Đảng chọn địa điểm này vì đây là cơ sở của địa phương, gia đình gốc là địa chủ là ông Nguyễn Văn Triều, Ông Nguyễn Tấn Tảo lại là quan chức chính quyền (Xã Tảo) là con thứ năm của ông Nguyễn Văn Triều. Do vậy làng lính sẽ không dòm ngó, mật thám không để ý nên ta dựa vào đó hoạt động bí mật, tổ chức hội họp. Vị trí gần ga xe lửa Gò Đen và lộ Đông Dương, vừa nằm trong nội đồng sầm uất bên cạnh con rạch Gò Đen rất thuận lợi cho việc quy tụ hội họp và dễ dàng rút lui nếu bị phát hiện. Nhà lại khá giả có khả năng chứa chấp nhiều người trong nhiều ngày. Vì những điều kiện thuận lợi trên các đ/c chọn địa điểm nay quyết định cuộc họp chính thức.
Cuộc họp diễn ra như sau: đ/c Nguyễn Xuân Luyện (cử Luyện) đại diện Xứ Ủy Nam Kỳ chủ tọa cuộc họp giới thiệu thành phần gồm các đồng chí trung kiên của Đảng:
1/ Ung Văn Khiêm (tức đ/c Huân) Xứ Ủy viên Nam Kỳ
2/ Nguyễn Xuân Luyện (Cử Luyện) Xứ Ủy viên Nam Kỳ
3/ Lê Quang Sung (tức Huế Hoàng) Xứ Ủy viên Nam Kỳ
4/ Nguyễn Thị Nhỏ (Sáu Điếc) người Long Hồ Vĩnh Long
5/ Nguyễn Văn Tuôi (Sáu Tuôi) Long Phú-Trung Quận-Chợ Lớn
6/ Phạm Khương – Bình Nhựt – Tân An
7/ Nguyễn Văn Tốt – Cần Đước – Chợ Lớn
8/ Phan Văn Hảo Trung Quận-Chợ Lớn
9/ Nguyễn Văn Nhâm Trung Quận-Chợ Lớn và hai đồng chí ở Cần Giuộc và Đức Hòa chưa xác định được họ tên.
Hội nghị chỉ định 5 đ/c vào Ban thường vụ cấp ủy đầu tiên của tỉnh Chợ Lớn gồm:
1/ Lê Quang Sung – Bí thư Tỉnh Ủy
2/ Nguyễn Thị Nhỏ – Phó Bí thư Tỉnh Ủy
3/ Nguyễn Xuân Luyện – Tỉnh Ủy viên
4/ Nguyễn Văn Nhâm – Tỉnh Ủy viên
5/ Nguyễn Văn Tốt – Tỉnh Ủy viên
Sau đó các quận thành lập Quận ủy một số đ/c được bổ sung vào Tỉnh Ủy:
1/ Nguyễn Văn Tuôi
2/ Phạm Khương
3/ Phan Văn Hảo.
Thế là Tỉnh Ủy ra đời trong hoàn cảnh đấu tranh trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù. Quần chúng nhân dân tỉnh Chợ Lớn từ đây sẽ được sự lãnh đạo của Tỉnh Ủy: Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tổ chức Tỉnh Ủy ở Nhà Long Hiệp không lâu thì phải dời vào Chợ Lớn do địch khủng bố gắt gao nhưng vẫn duy trì hoạt động như treo cờ Đảng, in và giao tài liệu, cử cán bộ về hoạt động, tuyên truyền ở cơ sở.
Trong thời gian từ năm 1931-1932 thực dân Pháp rút kinh nghiệm trong cao trào 30-31 ở Nghệ Tĩnh nên đàn áp dã man các phong trào đấu tranh và tiến hành khủng bố trắng các cơ sở Đảng. Xứ Ủy Nam Kỳ cũng bị phá vỡ trong thời gian này. Giai đoạn thử thách khốc liệt này cũng là giai đoạn thể hiện sự đấu tranh kiên trì, bền bỉ đầy gian khổ và cũng đầy kỳ tích của Tỉnh Ủy Chợ Lớn trong việc tái lập Xứ Ủy Nam Kỳ mà Tỉnh Ủy Chợ Lớn và Tân An đóng vai trò quyết định. Trong khoảng nửa cuối năm 1931, vào lúc Võ Văn Tần bị truy nã ở Đức Hòa phải trở qua Gia Định, Hồ Văn Long đã khôi phục lại Tỉnh Ủy lâm thời Chợ Lớn và giữ trách nhiệm Bí thư Tỉnh Ủy. Cơ sở Đảng dần dần phục hồi mạnh, khôi phục xong Tỉnh Ủy Chợ Lớn Hồ Văn Long tiếp tục tổ chức lập Ban vận động khôi phục cơ sở Đảng với ý định tái lập Xứ Ủy Nam Kỳ. Đến ngày 2/5/1932, đ/c Hồ Văn Long chủ trì hội nghị cán bộ Đảng của các tỉnh về họp ở Bình Đăng (Chợ Lớn) quyết định Xứ Ủy Nam Kỳ do đ/c trực tiếp làm bí thư. Cuộc họp quyết định nhiều chủ trương lớn trong đó có việc chuẩn bị tạo điều kiện tiến tới tái lập Xứ Ủy chính thức. Sau thời gian củng cố các tỉnh ủy Hồ Văn Long triệu tập đại biểu Đảng trong toàn xứ về TP.Sài Gòn họp bầu ra Xứ Ủy chính thức vào đêm 11/10/1932. Trong điều kiện địch toàn quyền kiểm soát và khủng bố việc triệu tập lại 8 Tỉnh ủy để tái lập Xứ ủy Nam Kỳ là một kỳ tích lớn lao của những người cộng sản mà Tỉnh Ủy Chợ Lớn đóng vai trò quyết định. Chính Mác- Ty Giám đốc Sở mật thám Đông Dương phải thừa nhận “đây là sự phát triển của phong trào, tổ chức lại âm mưu tái lập Đảng Cộng Sản Đông Dương”.
Đây là một chiến tích lớn kể từ khi thành lập tháng 11/1930 của Tỉnh Ủy Chợ Lớn đối với sự hình thành và lớn lên đầy những bước thăng trầm của Đảng trong thời kỳ thoái trào đầu tiên ở những năm 1931-1932.
Việc góp phần tái lập Xứ ủy Nam Kỳ mà tỉnh Chợ Lớn đóng một vai trò then chốt càng khẳng định tầm quan trọng và giá trị lịch sử lớn lao của sự kiện thành lập Tỉnh Ủy đầu tiên Chợ Lớn tháng 11/1930 ở Nhà Long Hiệp. Sự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặc lịch sự trọng đại và khẳng định một điều không thể chối cải trong lịch sự đấu tranh cách mạng của quần chúng và nhân dân tỉnh Chợ Lớn: đây là cơ sở là tiền đề cách mạng đển quần chúng nhân dân tỉnh Chợ Lớn (sau này là Long An) dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong vùng lên trong cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa tháng 11/1940, rồi giành chính quyền từ tay thực dân Pháp, Phát xít Nhật trong cách mạng Tháng 8/1945. Sau đó cũng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Ủy và nhân dân tỉnh Chợ Lớn bước vào cuộc kháng chiến 9 năm thắng lợi. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ 21 năm trường kỳ Tỉnh Ủy Long An tiếp tục lãnh đạo quân và dân Long An đi đến thắng lợi hoàn toàn năm 1975.
4./ Loại di tích.
“Nhà Long Hiệp” là di tích lịch sử ghi dấu một sự kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh của Đảng và nhân dân tỉnh Chợ Lớn. Nơi đây là địa điểm lưu niệm một địa danh lịch sử: “Nhà Long Hiệp nơi thành lập tỉnh ủy đầu tiên tỉnh Chợ Lớn tháng 11/1930”.
5./ Khảo tả di tích.
Từ quốc lộ I theo hương lộ Long Bình đi 1,3km về phía tây phải có mộ Nguyễn Tấn Long, Nhà Long Hiệp cách đó gần 100m. Nằm giữa nội đồng, xung quanh và trước nhà là một vườn cây ăn trái. Ngôi nhà có hai mặt trước và sau có cổng vào nhà giống nhau. Mặt trước chiếm 2/3 diện tích ngôi nhà (mặt chính) quay về hướng rạch Gò Đen. Mặt sau chiếm 1/3 diện tích quay về hướng lộ Long Bình. Nhà có chiều dài là 17m, ngang là 14m. Có kiến trúc kiểu xưa mặt tiền có chạm 1 số hoa văn bằng xi măng. Trước nhà có vòng lan can bao xung quanh, sân xây bằng tường 20cm. Trước cổng vào nhà có hành lang dài 2m. Nhà xây kiểu ba gian, 2 chái và lợp bằng ngói đại tiểu, nền nhà lát gạch tàu. Móng được âm bằng đá xanh tường nhà là 40cm.
Mặt tiền 3 lối vào nhà, 3 bên lối vào nhà có 2 cửa sổ bằng gỗ có song sắt. hai bên hông nhà là hai chái có hai cửa bằng gỗ thông ra ngoài. Trong nhà có 4 hàng cột, mỗi hàng cột có 4 chia nhà thành 3 gian. Cạnh hai bên chái ngôi nhà đặt bộ ván gõ và 1 ghế bàn tròn, ở gian nhà giữa để một bộ ghế trường kỷ và một bàn thờ làm ngôi nhà tăng thêm vẻ đẹp và sự tôn nghiêm của ngôi nhà thờ. Về sau bộ ghế được dời về phía bên phải cạnh bộ ván. Dưới bộ ghế này là hầm bí mật, và chính bộ ván này là nơi ngồi họp của các đại biểu bầu ra Tỉnh Ủy tỉnh Chợ Lớn tháng 11/1930.
Nối giữa ngôi nhà chính và ngôi nhà phụ phía sau là bức tường 20cm, có hai cửa lớn 71cm bằng gỗ thông ra nhà sau. Qua hai cửa là một phòng lớn có hai cửa sổ bằng gỗ cũng có song sắt, cạnh mỗi bên cửa sổ là một gian buồng lớn (Chính hai gian buồng này là nơi in ấn tài liệu truyền đơn lúc Tỉnh Ủy chọn nơi này làm cơ sở. Nhà phụ phía sau có đặt một bộ ván nhỏ và một bàn thờ, nhà sau cũng có hai cửa lớn thông ra ngoài và cũng có một hành lang dài 2m. Ngôi nhà này đến năm 1968 bị pháo bắn sập 1 góc. Sau năm 1975 không ai ở đến 1988 thì sụp đổ hư hỏng 95%
Hiện nay chủ nhân tháo gỡ hoàn toàn, ngôi nhà chỉ còn lại một nền đất trống.
6./ Gía trị lịch sử của di tích.
Di tích lịch sử nhà Long Hiệp là nơi ghi dấu một sự kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Chợ Lớn lúc ấy nói riêng cũng như Đảng và dân tộc ta nói chung.
Đây là một điểm son trong trang sử vẻ vang của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Di tích lịch sử Nhà Long Hiệp là hiện thân sinh động chứng minh cho sự sáng suốt của Đảng khi quyết định thành lập Tỉnh Ủy Chợ Lớn vào tháng 11/1930 là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và đáp ứng được nhu cầu trước phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân tỉnh Chợ Lớn vào lúc ấy.
Nó là chứng tích để khẳng định cho sự truyền bá tư tưởng của Đảng và Bác Hồ trong nhân dân tỉnh Chợ Lớn.
Di tích nhà Long Hiệp với sự kiện thành lập Tỉnh Ủy tháng 11/1930 đánh dấu một bước ngoặc lịch sử: từ đây lịch sử của Đảng gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Chợ Lớn (Long An ngày nay).
Từ bước ngoặc này phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Chợ Lớn sẽ đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Đây là nhân tố quan trọng quyết định để phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh đi đến thành công. Ngày nay trong công cuộc xây dựng tổ quốc, công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là hết sức cần thiết, di tích lịch sử Nhà Long Hiệp với những giá trị lịch sử to lớn đó là một đối tượng lý tưởng để thực hiện công tác trên. Qua đó những quá khứ oai hùng của cha ông sẽ được thế hệ hiện tại và tương lai kế thừa và phát huy hơn nữa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
II/ DI TÍCH LỊCH SỬ “ KHU VỰC XÓM NGHỀ ” QUÊ HƯƠNG ANH HÙNG
DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838-1868)
(Ấp I, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An)
Di tích Bia Nguyễn Trung Trực tại ấp 1 xã Thạnh Đức
1./ Tên gọi di tích:
Khu vực Xóm Nghề thuộc Thôn Bình Nhựt – Tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An nay là xã Thạnh Đức huyện Bến Lức tỉnh Long An. Người ta gọi khu vực này là Xóm Nghề vì khi xưa dân cư ở đây sống chủ yếu bằng nghề đánh cá. Nơi đây vào năm 1838 Nguyễn Trung Trực đã khóc tiếng khóc chào đời và cũng chính vị anh hùng này đã làm rạng danh cho tổ quốc.
2./ Địa điểm di tích:
Di tích tọa lạc tại (Thôn Bình Nhựt – Tổng Cửu Cư Hạ huyện Cửu An – Phủ Tân An) nay là ấp 1 xã Thạnh Đức – huyện Bến Lức tỉnh Long An, đường đến di tích bằng các ngã đường sau:
– Đường bộ: du khách đến Thành phố Tân An theo quốc lộ I về phía TP.Hồ Chí Minh 12km đến ngã tư Bình Nhựt, đi tiếp 100m nữa quẹo trái theo con đường đất 800m thì đến di tích.
– Đường thủy: du khách theo dòng Vàm Cỏ Đông đến Thị trấn Bến Lức, từ đây đi tiếp theo quốc lộ I về phía Tây 1km thì đến ngõ rẽ vào di tích.
3./ Sự kiện và nhân vật lịch sử.
3.1/Vài nét về quê hương anh hùng Nguyễn Trung Trực:
Dãi đất dọc sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông) nơi anh hùng Nguyễn Trung Trực sinh ra và lớn lên đã có một lịch sử lâu đời. Vào thế kỷ thứ VI khi Nam Bộ còn thuộc Vương quốc Chân Lạp, cư dân lúc ấy còn thưa thớt, rừng rậm mọc dày. Năm 1296 Châu Đạt Quan sứ thần nhà Nguyễn đi sứ Chân Lạp còn thấy: “…, những cửa của các con sông lớn chạy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những cây cổ thụ và cây mây dài tạo thành chỗ trú xum xuê”. Từ thế kỷ 16 lưu dân người Việt từ Phương Bắc đã tiến vào khai phá đất hoang, lập thành làng xóm. Vào 1623 dưới thời chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên khi nhà Nguyễn vào lập đồn binh ở Praynokor (Sài Gòn) thì vùng đất phía Nam người Việt đã sinh sống thành làng đông đúc. Trong cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài gần 1 thế kỷ những người dân nghèo túng chán ghét cảnh cốt nhục tương tàn đã tiến vào Nam. Họ theo các cửa sông, ngược lên thượng lưu và khai phá đất đai màu mỡ ở hai bên bờ sông. Vùng đất dọc sông Thuận An đã được khai phá trong thời gian này. Cao tổ của Nguyễn Trung Trực, ông Nguyễn Văn Đạo là 1 trong những lưu dân đầu tiên khai phá làng Bình Nhựt. Đến 1705 khi Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân dẹp xong giặc Cao Miên rồi lập đồn điền ở Vũng Gù (Tân An), đào kênh Bảo Định nối sông Vũng Gù với sông Mỹ Tho thì vùng đất thuộc lưu vực hai con sông Vàm Cỏ đã được khai phá về cơ bản. Học giả Lê Quí Đôn 1776 vào Nam có viết Phủ Gia Định, xứ Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại toàn rừng rậm, họ Nguyễn mới chiêu mộ những dân có vật lực ở các Phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn xứ Quảng Nam dời tới đây chặt phá mở mang hết thảy thành bằng phẳng, đất màu mỡ, do đó thóc rất nhiều. Người giàu ở địa phương hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30 nhà. Mỗi nhà điền nô 50, 60 người, trâu bò 300, 400 con cày bừa cấy gặt rộn ràng không rỗi. Hàng năm đến tháng 11, 12 thường giả thành gạo bán lấy tiền ăn tết. Sử liệu trên phản ánh phần nào mức độ phát triển kinh tế của Phủ Gia Định lúc bấy giờ, trong đó có vùng đất ven sông Vàm Cỏ Đông. Đầu thế kỷ 19 Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận “Dọc theo sông Bến Lức, phố xá trù mật, có bán ghe nhỏ, than củi, dầu rái, bao lác và buồm ghe,…ở bờ Nam sông ấy, quán xá trù mật ghe thuyền đi lại tạm đình, đợi nước lên sẽ đi vào Nam hay ra Bắc”. Thôn Bình Nhựt cách Chợ Phước Tú (Thị trấn Bến Lức ngày nay) Lỵ Sở của huyện Tân Long chưa đầy 100m chắc chắn là một nơi trù phú. Sông Thuận An tức sông Vàm Cỏ Đông là một thủy lộ quan trọng trong việc thông thương giữa Miền Đông và Miền Tây nhất là từ lúc đào con kênh Thủ Thừa nối liền hai con sông Vàm Cỏ. Tháng 2 năm Canh Tuất Chúa Nguyễn cho đắp quan lộ. “…từ Tân Thuận qua chùa Kim Chương do phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò Tuyên Tự đến Bến Thủ Đoàn, qua sông Hưng Hòa (đoạn sông Vàm Cỏ Tây chảy qua Thị xã Tân An) đến Gò Trấn Định…Đường sông thẳng như tấm đá mài, gọi là đường thiên lý của Miền Nam”. Con đường này qua sông Vàm Cỏ Đông làm cho vùng đất ven sông có một vị trí chiến lược, là một trong những địa điểm xung yếu nhất trong vành đai bảo vệ Tỉnh thành Gia Định về phía Tây, phía Nam, kiểm soát được khu vực này là kiểm soát cả 1 vùng đất từ biên giới Cao Miên đến Tây Ninh, Bến Lức, Gò Công, bởi thế vùng này đã xảy ra nhiều trận giao chiến khốc liệt giữa quân đội Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Người dân ở đây vốn là hậu duệ của những lưu dân buổi đầu dũng cảm vào “phá Sơn Lâm, đâm Hà Bá” mang trong huyết quản một truyền thống cần cù quật khởi. Họ mau chóng hòa nhập với thiên nhiên bao la hùng vĩ, tạo nên một phong cách hào sảng trọng nghĩa khinh tài, đặc trưng của Nam Bộ. Thời xa xưa Bến Lức cũng là nơi có nhiều làng võ và những thầy dạy võ nổi danh trong vùng. Chính vì vậy nơi đây cũng là chốn đi về của những người có tâm huyết, nghĩa khí, những nhà nho yêu nước. Nằm trong bối cảnh chung ấy những người dân Xóm Nghề, Bình Nhựt chắc chắn đã tiếp thu tinh thần thượng võ, tư tưởng nhân nghĩa, dám xả thân vì nghiệp lớn, mà người con anh hùng của họ: Nguyễn Trung Trực đã thể hiện sau này.
3.2/ Tiểu sử anh hùng Nguyễn Trung Trực:
“ Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỷ thần… ”
Hai câu thơ của nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã tổng kết được cuộc đời oanh liệt của Nguyễn Trung Trực với hai chiến công rực rỡ huy hoàng.
Cao tổ dòng họ Nguyễn là Nguyễn Văn Đạo quê gốc tại Xóm Lưới, xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định nhân khởi nghĩa Tây Sơn ông dắt gia quyến vào thôn Bình Nhựt, huyện Cửu An lánh nạn. Ở đây ông đã khai khẩn đất hoang, làm ruộng, sinh sống. Dòng họ Nguyễn còn ghi lại gia phả, theo đó Nguyễn Trung Trực là con của ông Nguyễn Văn Phụng, cháu nội ông Nguyễn Văn Đạo.
Nguyễn Trung Trực sinh năm 1838 tại làng Bình Nhựt, huyện Cửu An, Phủ Tân An, lúc nhỏ ông có tên là Chơn, rồi từ 1859 ông đổi tên là Lịch. Do tình hình ngay thẳng và có tên là Chơn nên thầy học đặt cho ông tên Nguyễn Trung Trực. Theo P.Vial một tên thực dân đã có mặt trong buổi đầu xâm lược nước ta Nguyễn Trung Trực có “thân hình vạm vỡ, lòng trung thực, đã qua nhiều phen thử thách, có diện mạo thông minh và thấy là có cảm tình”. Thuở nhỏ Nguyễn Trung Trực sống ở quê nhà bằng nghề làm ruộng và chài lưới. Năm 23 tuổi ông tham gia lực lượng chống Pháp. Sau khi đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, Nguyễn Trung Trực (lúc bấy giờ giữ chức Quyền sung Quản binh đạo, nên gọi là Quản Lịch) đứng đầu toán chống Pháp ở vùng Tân An, dưới sự chỉ huy chung của Trương Định. Lúc này, giắc Pháp chiếm cả Mỹ THo, chúng dùng những tàu chiến vừa là phương tiện tuần tra, vừa làm đồn nổi di động nơi các sông rạch trong vùng, chiến hạm Esperance án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo là một trong những đồn canh kiểu này. Nắm chắc tình hình, qui luật hoạt động của địch, Nguyễn Trung Trực đã chỉ huy nghĩa quân phối hợp cùng nhân dân địa phương dùng mưu kế tấn công tiêu diệt, thiêu hủy toàn bộ chiếc tàu giữa trưa ngày 10/12/1861. Ngọn lữa chiến thắng Vàm Nhựt Tảo đã làm bùng lên một sinh khí mới mẽ trong hàng ngũ nghĩa quân. Chỉ trong vòng 1 năm 3 chiếc tiểu hạm của Phát hoạt động trên sông Vàm Cổ Đông đã bị nghĩa quân tấn công dữ dội bằng nhiều cách thức khác nhau.
Sau khi 3 tỉnh niềm Đông rơi vào tay Pháp, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân rút về hoạt động ở các tỉnh niềm Tây. Đầu năm 1867 ông ra Bình Định nhận chức Lãnh binh, đến giữa năm 1867 lại về Hà Tiên giữ chức Thành thủ úy. Đêm 16/6/1868, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đánh chiếm đồn Rạch Giá, tiêu diệt hầu hết quân Pháp đóng trong đồn và làm chủ 5 ngày liền. Ngày 21/6./1868, quân Pháp phản công mạnh, nghĩa quân phải rút về Hòn Chông , rồi từ đấy Nguyễn Trung Trực cùng một bộ phận nghĩa quân rút về Phú Quốc. Tháng 9/1868, quân Pháp do tên tay sai Huỳnh Công Tấn dẫn đường đổ bộ lên Phú Quốc bao vây, tiêu diệt nghĩa quân, sau trận giao tranh ác liệt lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng đành phải rút sâu vào núi. Trong thế bao vây nhiều ngày, lương thực cạn, binh sĩ thương vong, bệnh tật nhiều, để tránh cho nghĩa quân khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, và để cứu mẹ nên ông đành để giặc bắt
Trong thời gian bị giam cầm ông đã tỏ rõ phẩm chất trong sáng của 1 người yêu nước, trung thành đến cùng với tổ quốc và nhân dân. Pháp tìm mọi cách chiêu dụ nhưng thất bại, không mua chuộc được ông Pháp giải ông từ Sài Gòn về Kiên Giang xử tử. Ngày 27/10/1868 nhằm ngày 12/9 âm lịch là ngày tang tóc của dân chúng tỉnh Kiên Giang vì phải chứng kiến cảnh người anh hùng bước lên đoạn đầu đài trả nợ non sông. Pháp trường là bãi đất ở Sở Bưu điện Kiên Giang ngày nay. Nguyễn Trung Trực oanh liệt hy sinh để lại một tấm gương anh hùng bất khuất và một câu nói đã đi vào lịch sử: “Chừng nào Tây làm hết cỏ nước Nam, thì lúc đó mới hết người Nam đánh Tây”. Hiện nay lăng mộ và Miếu thờ của ông còn ở Rạch Giá tỉnh Kiên Giang.
4./ Loại di tích.
Khu vực Xóm Nghề thuộc loại di tích lịch sử (là di tích lưu niệm nhân vật lịch sử). Chính mảnh đất này đã cưu mang nuôi dưỡng Nguyễn Trung Trực thuở thiếu thời và những truyền thống tốt đẹp của nhân dân nơi đây đã hun đúc nên một con người anh hùng làm rạng danh cho tổ quốc.
5./ Khảo tả di tích.
Khu vự Xóm Nghề nằm về phía Tây hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông đoạn gần Thị trấn Bến Lức. Những người dân gốc Trung Bộ, vốn làm nghề chài lưới khi tránh loạn lạc vào đây đã lập nên Xóm Nghề này. Chính Cao tổ họ Nguyễn là Nguyễn Văn Đạo cũng là người quê gốc ở Xóm Lưới, xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Đất đai khai phá và mồ mã của dòng họ Nguyễn giờ vẫn còn tại Xóm Nghề. Ngôi vườn xưa của ông Nguyễn Văn Phụng, nơi Nguyễn Trung Trực được sinh ra và lớn lên cũng nằm trong khu vực Xóm Nghề. Tiếc thay ngôi nhà không còn nữa và quan cảnh hiện nay cũng khác xưa nhiều.
Hiện nay ngôi vườn cũng bị bỏ hoang, bần và lá mọc um tùm rộng 900m2 nằm ven bờ Vàm Cỏ Đông.
Để ghi dấu quê hương của một người anh hùng dân tộc năm 1988 Sở VHTT kết hợp với huyện Bến Lức đã xây dựng một bia kỷ niệm tại Xóm Nghề cách quốc lộ I là 800m về phía Bắc. Bia được dựng trên mảnh đất dòng họ Nguyễn đã có công khai phá năm xưa trên con đường rẽ vào Xóm Nghề. Mặt bia quay về hướng chính Nam cách đường vào Xóm Nghề 11,8m.
Trên thân bia cách đỉnh bia 0,5m người ta gắn một tấm xi măng tô đá mài hình vuông mỗi cạnh 0,5m. Trên đó có dòng chữ : NGUYỄN TRUNG TRỰC (1839-1868).
Phía dưới người ta đắp xi măng lên thân bia tạo thành một mặt phẳng hình chữ nhật dài 1,2m, rộng 1m làm mặt bia. Mặt bia được tô đá rửa trên có ghi:
“Thôn Bình Nhựt, Tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An, tỉnh Gia Định, thuộc xã Thạnh Đức huyện Bến Lức tỉnh Long An, nơi sinh ra và lớn lên của người dân chài Nguyễn Văn Lịch tức anh hùng Nguyễn Trung Trực đã cùng nhân dân ghi hai chiến công oanh liệt vào lịch sử chống Pháp thế kỷ 19.
“Lửa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm trắng Kiên Giang khắp quỷ thần”.
Dưới cùng người ta gắn 5 thanh xi măng quét vôi trắng trên thân bia, mỗi thanh dài 10cm, cao 45cm để trang trí, trên nền bia có một lư hương để nhân dân đến thắp nhang tưởng niệm vị anh hùng.
III/ “ NHÀ VÀ LÒ GẠCH VÕ CÔNG TỒN ” NƠI GHI DẤU HOẠT ĐỘNG
CÁCH MẠNG CỦA CÁC ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG,
NGUYỄN THỊ MINH KHAI, NGUYỄN AN NINH VÀ LÀ ĐỊA ĐIỂM LƯU NIỆM NHÀ YÊU NƯỚC VÕ CÔNG TỒN
(ẤP LÒ GẠCH – XÃ LONG HIỆP – HUYỆN BẾN LỨC – TỈNH LONG AN)
1./ Tên gọi di tích.
Di tích có tên gọi “Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn” bởi vì đó là một tổng thể kiến trúc gồm 2 địa điểm: nhà Võ Công Tồn và lò gạch Võ Công Tồn.
Ngoài tên gọi trên “Nhà và lò gạch Võ Gạch Võ Công tồn” còn có tên gọi lúc bấy giờ là “Nhà và lò gạch Hội đồng Tồn”. Đây là tên gọi theo chức danh của Võ Công Tồn (Hội đồng địa hạt khu vực Chợ Lớn vào năm 1935 và 1939). Hiện nay “Nhà Võ Công Tồn” còn gọi là nhà Sáu Đức (Võ Công Đức -cháu nội Võ Công Tồn – người thừa kế), còn khu Lò gạch Võ Công Tồn thì gọi là vườn nhà bà Phan Thị Sáu (cháu dâu của Võ Công Tồn thừa kế).
Đây là nơi ghi dấu một số hoạt động của những nhà yêu nước và lãnh đạo Đảng Công sản như Nguyễn An Ninh, Tôn Đức Thắng và Nguyễn Thị Minh Khai. Là cơ sở đáng tin cậy của Đảng bộ Chợ Lớn, Xứ ủy Nam Kỳ và các phong trào yêu nước trước năm 1945.
Ngoài ra, di tích còn là nơi lưu niệm về ông Võ Công Tồn – một điền chủ tư sản, trí thức yêu nước – người đã cống hiến nhiều công của và cả tính mệnh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2./ Địa điểm di tích.
Di tích “Nhà Võ Công Tồn” thuộc ấp Lò Gạch, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Đường đến di tích bằng 2 hướng chính sau:
Từ Thành phố Tân An theo quốc lộ I ngược về hướng Đông (Hướng Tp.Hồ Chí Minh) đến khoảng giữa cây số 17 và 18 thuộc khu vực xã Long Hiệp (huyện Bến Lức). Rẽ phải theo con đường làng (đường vào ấp Lò Gạch), đi khoảng 1000m tiếp tục rẽ phải 800m di tích Nhà Võ Công Tồn nằm bên trái, khu lò gạch Võ Công Tồn nằm về phía Đông Nam Nhà Võ Công Tồn, khoảng 1km đường chim bay.
Từ Tp.Hồ Chí Minh (bến xe Miền Tây) đến cây số 17 rẽ trái vào con đường làng đi tiếp như hướng dẫn trên.
3./ Sự kiện và nhân vật lịch sử.
3.1/ “Nhà Võ Công Tồn” – nơi ghi dấu một số hoạt động của những nhà yêu nước và lãnh đạo cách mạng như: Tôn Đức Thắng, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thị Minh Khai.
Long Hiệp là một xã trong huyện Bến Lức (Long An), thuộc vùng Đồng bằng Nam Bộ. Xã Long Hiệp nằm trên quốc lộ I – là quốc lộ xuyên suốt nước ta từ Bắc chí Nam – con đường giao thông chiến lược của các chế độ thuộc Pháp, Mỹ trước kia, cũng như của chúng ta hiện nay.
Long Hiệp là một xã nhỏ, đất không rộng, người không đông, với nghề làm ruộng là nguồn sống chính. Xã Long Hiệp ở cách thành phố Sài Gòn – Trung tâm đầu não của chế độ Mỹ Ngụy thời tạm chiếm 26km, là cửa ngõ từ Sài Gòn về các tỉnh Miền Tây. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Long Hiệp là địa bàn trọng yếu của cả hai phía ta và địch lúc phòng ngự cũng như tiến công.
Tháng 11/1930, Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Chợ Lớn được thành lập tại nhà ông Bộ Tảo-ấp Long Bình, xã Long Hiệp. Nhân dân Long Hiệp với truyền thống yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sớm được Đảng giác ngộ về quyền lợi dân tộc và giai cấp, vững tin vào thắng lợi cuối cùng, nên sẵn sàng dốc hết sức người, sức của cho cuộc kháng chiến giành độc lập cho tổ quốc, tự do cho dân tộc. Võ Công Tồn là một điển hình cho sự đóng góp ấy.
a. Lẫm lúa nhà Võ Công Tồn – nơi Bác Tôn mở lớp học truyền bá tư tưởng cách mạng chống thực dân Pháp năm 1928.
Cuối năm 1926, tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ra đời. Sau khi tiếp nhận tổ chức Công Hội của Tôn Đức Thắng thì tổ chức Thanh Niên phát triển nhanh chóng tại thành phố và lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Kỳ. Cùng với sự phát triển và lan rộng của tổ chức này, sự truyền bá Chủ nghĩa Mac-Lênin vào thành phố và các khu vực lân cận cũng vô cùng mạnh mẽ.
Giữa năm 1928, bác Tôn Đức Thắng (1888-1980) – nhà hoạt động chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1960-1980) đã đến mở lớp học ngắn hạn tại lẫm lúa nhà Võ Công Tồn- một địa điểm có rất nhiều ưu thế.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, cũng như biết bao đồng bào lao động nghèo khổ trên cả nước, nhân dân Long Hiệp cũng bị áp bức, bóc lột thậm tệ bởi chính quyền thực dân phong kiến. Nhân dân Long Hiệp vốn có truyền thống yêu nước, lòng tự hào về dân tộc của người Việt Nam nên trước cảnh nước mất nhà tan không thể không đứng lên giành quyền sống cho mình. Bấy giờ, các tổ chức yêu nước lần lượt xuất hiện, nhất là từ khi Đảng Công Sản ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng, khát khao đó. Chính vì thế, họ rất sẵn lòng che chở, đùm bọc những nhà yêu nước và lãnh đạo cách mạng.
Có thể nói nhà Võ Công Tồn là một địa điểm có nhiều thuận lợi: cây cối rậm rạp bao quanh, ngoài cùng là vòng rào rồi đến hào sâu hơn 2m. Ngõ vào luôn khép kín, muốn vào vườn nhà phải qua cầu (cầu bắt qua hào), tối đến cầu được rút đi. Đứng bất cứ nơi đâu trong vườn nhà, ta cũng có thể quan sát chung quanh; nhưng bên ngoài thì không thể thấy rõ bên trong vườn và nhà; ngoài ra, còn có đàn chó tinh khôn canh gác nên rất dễ dàng phát hiện nếu có kẻ địch.
Năm 1928, sau một lần đến nhà Võ Công Tồn, Bác Tôn quyết định chọn lẫm lúa làm nơi mở lớp dạy học. Chương trình dạy của Bác là chữ Hán nhưng chủ yếu nhằm truyền bá tư tưởng cách mạng chống thực dân Pháp cho một số học trò tiêu biểu như: các cô Nhựt, Nguyệt (người của Hương trưởng Hoài), Chín, Mười (con của Hương trưởng Hoài), Chi, Tâm, Giao…Buổi tối, Bác Tôn còn dạy võ thuật các học trò rèn luyện thân thể. Thời gian này, trong buồng kín của nhà Võ Công Tồn thường xuyên có các cuộc họp bàn “quốc sự” kéo dài suốt buổi tối giữa Bác Tôn, Trần Trương, thầy đồ Nam và Võ Công Tồn. Mặc dù bọn mật thám ngày đêm rình rập, lớp học giữ bí mật được 3 tháng sau đó, bọn chúng phát giác nên Bác Tôn cho giải tán lớp học. Trở về Sài Gòn, và không lâu sau Bác Tôn bị địch bắt.
b. Khu Lò gạch Võ Công Tồn- nơi Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thị Minh Khai tuyên truyền vận động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Năm 1927, Nguyễn An Ninh -nhà cách mạng, nhà văn, nhà báo đã sáng lập tổ chức yêu nước “Thanh niên Cao vọng Đảng” (sau là Hội kín Nguyễn An Ninh). Nhưng năm 1923, Võ Công Tồn đã sát cánh cùng Nguyễn An Ninh trong công tác làm báo, mở trường lớp để nâng cao dân trí, tuyên truyền, thức tỉnh tinh thần quốc gia dân tộc cho quần chúng nhân dân để tham gia thành lập tổ chức nói trên. Các trường học do ông tổ chức được thành lập tại Long Can, Long Hiệp, Long Định (thuộc chi nhánh “Khuyến học hội Nam Kỳ” ở Gò Đen). Đặc biệt các lớp học ngắn ngày thường xuyên được tổ chức tại khu lò gạch của Võ Công Tồn do Nguyễn An Ninh trực tiếp giảng huấn, thu hút đông đảo công nhân lò gạch.
Khu lò gạch nằm cách nhà Võ Công Tồn khoảng 1km về hướng Đông Bắc. Về địa thế khu lò gạch có hướng Đông Bắc giáp con rạch khá lớn các mặt còn lại tiếp giáp đồng trống, cây cối bên trong rậm rạp thuận lợi cho việc nghi trang và rút lui khi có địch. Công nhân lò gạch làm việc tại đây có lúc lên đến 300 người nên việc tập hợp anh em công nhân tham dự các lớp học tại đây khá dễ dàng.
Năm 1936, Nguyễn Thị Minh Khai – nữ chiến sĩ cách mạng nguyên là Bí thư Thành Ủy Sài Gòn – Chợ Lớn ( năm 1937-1940) từ Sài Gòn đến khu lò gạch của Võ Công Tồn kết hợp cùng Nguyễn An Ninh mở lớp học ngắn ngày (20 ngày) nhằm tuyên truyền vận động cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin cho đông đảo công nhân lò gạch. Cũng từ thời gian này, công nhân lò gạch Võ Công Tồn đã hăng hái tham gia các cuộc biểu tình thị uy tại Sài Gòn-Chợ Lớn do Võ Công Tồn tổ chức. Một số người thực sự giác ngộ và đã cùng Võ Công Tồn tích cực hoạt động cách mạng như: Nguyễn Văn Thành, Hồ Thị Vi, Nguyễn Văn Chác, Nguyễn Bá Lộc…
Khu lò gạch của Võ Công Tồn còn là nơi lưu trú, chở che cho Nguyễn An Ninh trong những ngày bị thực dân Pháp truy đuổi gắt gao. Đây cũng là nơi tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Nguyễn An Ninh viết báo và gởi các bài một cách an toàn về toàn soạn để đăng trên những tờ báo công khai của Đảng lúc bấy giờ.
c. Ngoài ra “Nhà và lò gạch Võ Công Tồn” còn là cơ sở tin cậy của Đảng và các phong trào yêu nước trước năm 1945.
Năm 1913, Nguyễn Hữu Trí lập “Hội kín” ở khắp các tỉnh Miền Nam thành một hệ thống có tổ chức rất chặt chẽ. Trong số các cơ sở đó, nhà Võ Công Tồn là một trong những địa điểm hoạt động của Thiên Địa Hội. Sân nhà ông là nơi tập luyện võ nghệ (đánh quyền, múa roi,…) chờ ngày khởi nghĩa. Ngày 12/12/1916 Võ Công Tồn đã cùng nghĩa quân Thiên Địa Hội tham gia cuộc phá Khám Lớn-Sài Gòn. Tuy nhiên khởi nghĩa không thành, Nguyễn Hữu Trí và một số nghĩa binh hy sinh, phong trào Thiên Địa Hội tan rã.
Bên cạnh địa điểm nhà Võ Công Tồn – nơi Bác Tôn dạy học thì khu lò gạch của ông cũng là nơi hội họp, gặp gỡ thường xuyên của những nhà yêu nước như: Hương Quản Bồ, Tám Lợi (Hóc Môn), Giáo Hậu (Củ Chi), Hương trưởng Hoài, Hương hào Voi (Tân Bửu), Xã Thời (Bà Quẹo), Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Văn Tuôi, Nguyễn Văn Chác… và đặc biệt là cá nhà lãnh đạo cách mạng: Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thị Minh Khai đã chọn nơi dây làm nơi mở lớp tuyên truyền vận động cách mạng.
Năm 1935, Chi bộ Đảng của ấp Lò Gạch ra đời tại Lò gạch Võ Công Tồn. Mọi sinh hoạt, hội họp của Chi bộ đều diễn ra tại đây.
Năm 1937, 40.000 truyền đơn phản đối toàn quyền Brevie và thanh tra lao động J.Godart sang Việt Nam cũng được in ra tại khu lò gạch của Võ Công Tồn. Trong năm này, những truyền đơn in từ lò gạch được rãi khắp nơi từ Sài Gòn – Chợ Lớn đến Tân An, Mỹ Tho.
Khu lò gạch là nơi Võ Công Tồn trực tiếp sản xuất và kinh doanh – có lúc lên đến hơn 300 công nhân, nơi đây chính là nguồn cung cấp tài chính quan trọng cho Đảng và các nhà yêu nước hoạt động trong những năm đầu Đảng còn non trẻ.
3.2/ Nhà và Lò gạch của Võ Công Tồn – nơi lưu niệm nhà yêu nước Võ Công Tồn – người đã cống hiến rất nhiều công của và cả tính mệnh cho Đảng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa (1930-1945).
Võ Công Tồn sinh năm 1891, tại làng Long Hiệp tổng Long Hưng Hạ – quận Trung Quận – tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An). Võ Công Tồn có tên khai sinh là Võ Văn Tồn. Cha mẹ ông là người hào hiệp, còn ông lại ưa chuộng công bằng chính trực nên ông được cha thay chữ lót ở họ tên, đổi thành Võ Công Tồn. Gia đình Võ Công Tồn vốn có nguồn gốc từ Phan Thiết, đến đời ông nội của Võ Công Tồn thì chuyển vào Nam định cư, khai phá vùng đất mới bên bờ sông Rạch Chanh. Thân sinh của Võ Công Tồn là ông Võ Văn Suốt và bà Nguyễn Thị Hâm, mưu sinh bằng nghề hát bội, sau đó định cư, làm ruộng tại ấp Cá Trê (nay là ấp Lò Gạch) và xây dựng lò sản xuất gạch ngói. Nhờ lao động, cần cù, việc kinh doanh của ông bà ngày càng phát đạt, riêng ông Võ Văn Suốt rất được nhân dân tín nhiệm, từng làm làng đến chức Hương Cả. Ông Cả Suốt còn dùng lẫm lúa của gia đình dạy chữ nho và quốc ngữ để mở mang trí tuệ cho con em trong vùng.
Võ Công Tồn chào đời đúng vào thời kỳ các tổ chức yêu nước hình thành và hoạt động sôi nổi khắp nơi trong cả nước như: Thiên Địa Hội, Thanh niên Cao vọng Đảng (sau là “Hội kín” Nguyễn An Ninh), Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội… điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của ông.
Bên cạnh đó, sống và lớn lên trong một gia đình nề nếp, có truyền thống yêu nước, lại là người con duy nhất, Võ Công Tồn rất được cha mẹ thương yêu, chăm sóc và dạy dỗ kỹ lưỡng. Bản thân ông còn được tiếp thu những kiến thức tiến bộ thời đại, nhất là của nền văn hóa phương Tây. Thuở nhỏ, ông học lớp nhất (Cours Superieur) ở trường Trung học cơ sở Bến Lức ngày nay. Sau đó, ông học tiếp 6 năm Trung học ở trường nội trú Taberd (Sài Gòn). Vì là con duy nhất nên ông không học tiếp nữa mà trở về phụng dưỡng song thân và lập gia đình. Năm 1907, ông kết hôn cùng cô Đào Thị Nhã (con gái của ông Đào Văn Thung – một thầy thuốc nổi tiếng ở ấp Tri Lộc- xã Phước Vân -quận Cần Đước – tỉnh Chợ Lớn). Phần lớn cuộc đời Võ Công Tồn sống với làng xóm quê hương, nơi bảo lưu những nét văn hóa truyền thống dân tộc, luôn ưa chuộng những tấm gương trung, hiếu, tiết, nghĩa vì thế ông cũng là người con rất mực hiếu thảo.Tình ông hào hiệp khẳng khái
Với tính tình “ưa cải lẻ và ham đấu tranh”, yêu chuộng công bình chính trực, Võ Công Tồn sớm nhận rõ nổi nhục mất nước, thân phận của đồng bào,.. nên ông thường đề xuất việc mở ra trường học, bênh vực kẻ yếu và được tiếng “Dân ưa quan ghét”. Trong khoảng những năm 1925 đến 1939, ông tham gia chính quyền tay sai Pháp, lần lượt giữ các chức vụ như: Hương hào, Xã trưởng, Hương cả, và Hội đồng Quản hạt thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Chính trong thời gian này, lợi dụng thế hoạt động công khai của mình ông đã hết lòng giúp đỡ cách mạng. Võ Công Tồn rất hâm mộ thể thao, văn nghệ, thích giao du với nhiều người và kết thân với những bạn bè, đồng chí có đạo đức, yêu nước, danh thơm của ông lúc ấy lan ra khắp Nam Kỳ.
Từ khi được tiếp xúc với Nguyễn An Ninh, được dự các cuộc diễn thuyết ở Vườn Lài về đạo đức, luân lý Đông, Tây; về tư tưởng văn hóa “dân ước, dân quyền, dân đạo” của Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn đã sớm giác ngộ và hành động cứu nước theo con đường cách mạng tư sản dân quyền. Năm 1923, ông gia nhập “Thanh niên Cao vọng Đảng” sau này là “Hội Kín” Nguyễn An Ninh.
Năm 1925, Võ Công Tồn đắc cử chức Hương hào trong làng. Với ông đây là điều kiện thuận lợi để bênh vực cho dân “thấp cổ, bé miệng”. Ông rất nổi danh là người bặt thiệp, chánh trực, công bình.
Năm 1926, Võ Công Tồn cùng Trần Huy Liệu mở cuộc vận động đón tiếp Bùi Quang Chiêu từ Pháp về. Đồng thời, ông cũng tích cực quyên góp tiền, cổ động cho đám tang nhà ái quốc Phan Chu Trinh và là một trong 12 thành viên của Ban tổ chức tang lễ. Vì việc này, ông bị ghi vào sổ bìa đen của thực dân Pháp.
Ngay từ năm 1923, Võ Công Tồn đã ủng hộ tài chính cho Nguyễn An Ninh thành lập và duy trì hoạt động tờ báo La Cloche Felee (Tiếng chuông rè). Dây là tờ báo tiến bộ công khai, lần đầu tiên đăng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” ở Sài Gòn vào năm 1926.
Năm 1927, Võ Công Tồn đã tổ chức thành công cho Nguyễn Văn Tạo và một số thanh niên yêu nước ở Gò Đen như: Phạm Văn Phấn (Cù Là Phấn), Nguyễn Văn Bích, Lại Thành Hưng, Võ Công Phụng (con ông Võ Công Tồn), … sang Pháp du học.
Tại Gò Đen, Võ Công Tồn đã cổ động, tổ chức thành lập chi nhánh “Khuyến học hội Nam Kỳ” do thầy giáo Dương Văn Gấm là người trực tiếp điều hành, còn ông ủng hộ về tài chính. Ba trường học ở Long Hiệp, Long Can, Long Định được hình thành ngay sau đó. Hội có một tủ sách đầy đủ của “Tự lực văn đoàn” và những quyển sách quốc cấm của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh,… cũng được bí mật lưu hành tại đây. Hàng tháng Hội tổ chức mời diễn giả từ Sài Gòn – Chợ Lớn đến, diễn thuyết nhiều đề tài, thu hút được nhiều lớp người trong vùng đến nghe. Mục đích của Hội là tổ chức học tập, nâng cao dân trí, tuyên truyền, thức tỉnh tinh thần quốc gia dân tộc cho quần chúng nhân dân.
Cũng trong năm này, Võ Công Tồn đã đem phần lớn tài sản của mình mua một chiếc tàu có tên “Đại phúc kinh” của Hoa Kỳ về sửa chữa, làm phương tiện vượt biển cho một số thanh niên Nam Bộ sang Quảng Châu (Trung Quốc), tham gia lớp đào tạo cán bộ cho các tổ chức tiền thân của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng huấn.
Cuối năm 1927, Võ Công Tồn sang Pháp thăm con là Võ Công Phụng, đồng thời kết hợp du lịch và quan sát tình hình chính trị ở nước ngoài. Ở Pháp ông được tiếp xúc với các nhà yêu nước như: Nguyễn Văn Tạo, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và một số kiều bào yêu nước khác. Chuyến đi này đã làm ông mở mang hơn về tình hình chính trị và nó ảnh hưởng rất lớn trong việc chuyển hướng tư tưởng yêu nước của ông theo con đường Chủ nghĩa Xã hội và Cộng Sản.
Từ Pháp về, ông bị chính quyền Pháp “mời” lên Sài Gòn tạm giam, nhưng không có chứng cứ gì và được gia đình lo lót nên 25 ngày sau ông được thả. Lúc này, ông được cha giao cho quản lý 2 lò gạch và 2 trại cưa. Ông sắp xếp việc lò gạch và thực hiện một số cải cách đã được học hỏi ở Pháp như: trả thêm lương cho công nhân, thực hiện 8 giờ lao động 1 ngày và tiếp tục ủng hộ tài chính cho các trường học.
Bấy giờ, “Hội kín” Nguyễn An Ninh hoạt động rất mạnh, tập trung ở vùng Hóc Môn, Đức Hòa, Bình Chánh và Bến Lức. Võ Công Tồn rất tâm đồng với Nguyễn An Ninh. Vì thế ông luôn giành mọi thuận lợi để Nguyễn An ninh lãnh đạo “Hội kín”. Khu lò gạch của ông là nơi cư trú thường xuyên của Nguyễn An Ninh trong những ngày bị thực dân Pháp truy đuổi gắt gao.
Cuối năm 1928, sau cuộc khủng bố đẫm máu của thực dân Pháp với tổ chức yêu nước Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Bắc Kỳ, Nguyễn Ngọc Sơn được tồ chức này bí mật phái vào Nam để gây dựng thêm cơ sở và thành lập Tỉnh bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn. Võ Công Tồn được Nguyễn Phương Thảo (sau này là Trung tướng Nguyễn Bình) hâm mộ mời cùng đứng ra thành lập tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Nam Kỳ. Tổ chức dự định gồm: Trần Huy Liệu làm tỉnh bộ trưởng, Hà Thuận Hồng – trưởng ban tài chính, Nguyễn Phương Thảo – Trưởng ban cảnh bị và tổ chức; và mời Võ Công Tồn làm trưởng ban tuyên truyền… cùng các ông như: Nguyễn Hòa Hiệp, Cao Hữu Tạo, Đỗ Văn Viên, Nguyễn Thanh Lương, …Võ Công Tồn đã giúp vào sổ lạc quyên, đồng thời trở thành đại diện của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Nam Kỳ (bấy giờ tổ chức này chưa phản động). Đến đầu năm 1929, tổ chức này gầy dựng được một số chi bộ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho. Tuy nhiên, đây là tổ chức chưa có chân rết trong quần chúng cơ sở.
Năm 1929, thực dân Pháp truy quét giam cầm hàng loạt thành viên các tổ chức: Hội kín Nguyễn An Ninh, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, Đảng Tân Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, … Võ Công Tồn cũng bị bắt. Pháp đưa ông ra tòa xét xử cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo, Hà Thuận Hồng,…Tại tòa đại hình Sài Gòn, ngày 14 và 15/7/1930, ông bị kết án 5 năm tù vì tội chứa chấp những thành phần “quốc sự”. Vì được lo lót tiền nên bản án của ông giảm xuống còn 18 tháng và bị đày đi Hà Tiên cùng lượt với Nguyễn An Ninh.
Thời gian ở Hà Tiên, Võ Công Tồn đã có điều kiện giác ngộ đấu tranh giai cấp, ngã theo đường lối Đảng Cộng Sản, ông cùng các tù nhân Cộng sản lao động khổ sai có hành động tích cực trong đấu tranh chống địch và được Bí thư chi bộ nhà tù – Nguyễn Chánh Nhì nhận xét tốt.
Sau khi ra tù, Võ Công Tồn về quê cũng cố lại hoạt động kinh doanh lò gạch. Bấy giờ, cơ sở sản xuất gạch ngói của ông có trên 300 công nhân.
Càng về sau, gia đình Võ Công Tồn càng trở nên là cơ sở, chỗ dựa đáng tin cậy của Đảng và những người yêu nước. Ông trực tiếp cung cấp tiền cho Đảng hoạt động thông qua nhiều đồng chí như: Cử Luyện, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuôi, Nguyễn Văn Chác…Ông đã giúp đỡ và kết hợp chặt chẽ với Nguyễn An Ninh. Ngoài ra, các nhà hoạt động cách mạng trong “Hội kín” Nguyễn An Ninh như Hương quản Bồ, Tám Lợi (Hóc Môn), Giáo Hậu (Củ Chi), Hương trưởng Hoài (Chợ Gạo), Ba Phèn (Bình Lý) đều có đôi lần đến hoặc ở lại nhà ông, được ông sẵn sàng giúp đỡ tiền bạc với một tinh thần hết sức hào hiệp.
Năm 1935, chi bộ Đảng của ấp Lò Gạch ra đời tại lò gạch của Võ Công Tồn gồm: Nguyễn Văn Chác (Ba Trương) – Bí thư, Nguyễn Bá Lộc và Nguyễn Văn Thành. Chi bộ này mỗi tháng họp 2 lần, tại nhà Võ Công Tồn và mỗi lần họp ông đều tham gia canh gác.
Từ khi ấp Cá Trê có lò gạch của cụ Võ Văn Suốt và nổi tiếng với người thừa kế Võ Công Tồn, địa danh Cá Trê tự nhiên lùi về dĩ vãng và có tên mới là ấp Lò Gạch. Ấp Lò Gạch đã đi vào văn tự, là điểm hẹn, là danh xưng để những người yêu nước tìm đến với Võ Công Tồn.
Ngày 3 tháng 5 năm 1935, Võ Công Tồn được các nhà yêu nước khuyến khích ra tranh cử và đắc cử chức Hội đồng địa hạt Chợ Lớn. Mục đích cốt lõi của ông trong việc này là tìm cách tranh thủ thực hiện “tự do, dân chủ”, mang lợi ích cho dân, cho Đảng.
Tháng 10/1936 vì có chân trong Đại Hội Đông Dương, Nguyễn An Ninh bị Pháp bắt cùng Nguyễn Văn Tạo và Tạ Thu Thâu. Nhờ cương quyết đấu tranh tuyệt thực phản đối và được nhân dân bên ngoài ủng hộ nên Pháp đã buộc phải thả cả ba ông. Nguyễn An Ninh đoán biết rồi Pháp cũng bắt lại, nên “tị địa” tại nhà Võ Công Tồn đến khoảng giữa năm 1937 – cũng là lúc Sài Gòn có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ nhằm phản đối tên toàn quyền J.Brevie (mới nhậm chức).
Tháng 8/1936, Võ Công Tồn được Đảng tín nhiệm cử vào Ủy ban lâm thời Nam Kỳ (còn gọi là Lâm Ủy). Lâm ủy có cơ cấu: 7 dân biểu, 4 nhà báo, 3 lao động, 3 nông dân (Nguyễn Văn Trân – Võ Công Tồn- Trần Văn Hiến), 2 phụ nữ và Ủy ban còn cử ra các tiểu ban như chính trị, hành chánh, kinh tế, dân quê và làm ruộng. Võ Công Tồn cùng Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn Trân tham gia trong tiểu ban Dân quê và làm ruộng, nhưng công việc chính của ông là làm liên lạc cho Xứ ủy, đưa đón nuôi dưỡng cán bộ, cung cấp tài chính cho Đảng hoạt động.
Với tư cách là nhà hoạt động xã hội và Hội trưởng hội khuyến học Gò Đen, Võ Công Tồn thường xuyên quan hệ cộng tác với các đồng chí Cộng sản hoạt động công khai tại Sài Gòn như Phạm Hữu Lầu, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Văn Tạo, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Trấn,…
Khi Justin Godart từ Pháp sang thành phố Sài Gòn để thanh tra tình hình ở Đông Dương, Võ Công Tồn được Đảng phân công vận động tuyên truyền và tổ chức cho đông đảo đồng bào trong vùng đi đón… đồng thời nhằm nêu lên yêu cầu, đòi hỏi của người Việt Nam, biểu dương lực lượng lao động và công nhân. Trước tình hình tài chính để di chuyển quần chúng đến thành phố đúng theo quy định của các cơ quan ngôn luận công khai của Đảng đang rất khó khăn, Võ Công Tồn đã tích cực ủng hộ. Riêng đối với công nhân lò gạch, ông đã thuê xe đưa anh em đến địa điểm tập trung.
Theo kế hoạch Trung ương Đảng, Võ Công Tồn đã cùng Nguyễn Văn Lộc in 40.000 tờ truyền đơn phản đối toàn quyền Brevie và thanh tra lao động J.Godart sang Việt Nam, tại một gia đình trong khu lò gạch của mình. Trong tác phẩm “Chúng tôi làm báo” Nguyễn Văn Trấn có ghi về hành xử của Võ Công Tồn “Ơn ấy như núi nặng ngàn cân”. (NXB văn nghệ 1981 tr.177).
Trong lần đón Bộ trưởng Martius Moutet sau đó, Võ Công Tồn cũng tham gia tích cực như lần đón J.Godart.
Năm 1937, Võ Công Tồn được Đảng xem là một cán bộ công khai và được cử ra làm Phó Chủ tịch “Hội cứu trợ nạn đói Bắc Kỳ”.
Võ Công Tồn đã có sự đóng góp rất tích cực về tài chánh cho nhiều tờ báo của Đảng như: tờ L’Avant Garde (Tiên Phong)- tờ báo tiếng Pháp đầu tiên, công khai ở Nam Bộ, do Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương xuất bản năm 1937, đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo, Nguyễn Văn Nguyễn -thư ký tòa soạn, ở 43 Hamelin, Sài Gòn; cùng nhiều tờ báo công khai khác của phong trào Mặt Trận Dân Chủ như: Le Peuple (Dân Chúng) 1938, do đồng chí Nguyễn Văn Cừ -Tổng Bí thư Trung ương Đảng sáng lập xuất bản tại Sài Gòn; tờ Lao Động, cơ quan của phong trào nghiệp đoàn và lao động thành phố, do đồng chí Nguyễn Thành A phụ trách; Đông Dương tạp chí xuất bản 1939 tại Mỹ Tho, do đồng chí Nguyễn Thanh Sơn phụ trách; và một số tờ báo ở Miền Bắc, Miền Trung như Bạn Dân, Thế Giới Mới (do Trần Đình Chi và Đào Duy Kỳ phụ trách).
Từ 1937 đến 1939 nổ ra phong trào đấu tranh sôi nổi và kịch liệt của những người cộng sản chống quan điểm phản động của nhóm Trotskyste (Tạ Thu Thâu),Võ Công Tồn tỏ rõ lập trường đứng hẳn về phía Đảng Cộng Sản. Ông ủng hộ đường lối Đệ Tam quốc tế do Lênin lãnh đạo và các chủ trương của Đảng.
Năm 1938, Miền Tây Nam Kỳ xảy ra thiên tai lũ lụt lớn, nhân dân Cà Mau lâm vào cảnh đói rét nhiều nhất. Họ đấu tranh yêu cầu nhà cầm quyền trợ cấp nhưng không được giải quyết mà còn bị chúng khủng bố trắng trợn. Võ Công Tồn tích cực cùng các nhà từ thiện, hảo tâm vận động thành lập “Ủy Ban cứu tế dân đói Cà Mau”, Ủy ban này do luật sư Loye làm Chủ tịch, Nguyễn Thị Huỳnh – phó Chủ tịch, Võ Công Tồn với tư cách một điền chủ và thành viên Hội đồng địa hạt Chợ Lớn, làm ủy viên cùng các vị như: Võ Thành Mông, Trần Quang Khánh, Lê Thị Bảy,…với hành động thiết thực là tổ chức một đoàn đại biểu đặc biệt ở Sài Gòn – Chợ Lớn, gởi kiến nghị lên Thống đốc Nam Kỳ – Bagiet đòi giải quyết tình hình trên, đồng thời phản đối tên chủ quận Viala đã có hành động đàn áp đồng bào ở Cà Mau. Kế đến, Võ Công Tồn tự trích của cải trong gia đình, cùng một số nhà từ thiện mang đi cứu trợ. Nghĩa cử đáng phục ấy của Võ Công Tồn, người dân Cà Mau mãi mãi vẫn không quên.
Ở khu lò gạch của Võ Công Tồn, công việc in truyền đơn vẫn được bí mật tiến hành trong suốt năm 1937, thoạt đầu in bằng xu xoa sau chuyển sang in bột. Những trợ thủ đắc lực cho Võ Công Tồn trong việc in ấn này là những Đảng viên như: Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tuôi, Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Văn Chác, Hồ Thị Vi…Truyền đơn được trực tiếp nhận bởi các đồng chí như: Nguyễn Văn Tuôi, Sáu Tây (cả hai là người hoạt động cách mạng tại địa phương), thầy giáo Hiển (người Cai Lậy), ông Hai Hảo (nguyên Tỉnh ủy viên Long An); sau đó được rãi khắp Sài Gòn -Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho.
Năm 1939, theo chỉ thị mật của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, nhà in bí mật của Trung ương Đảng mang tên công khai hóa “Văn hóa thư cuộc” được thành lập. Danh sách sáng lập viên công khai đứng đầu là Phạm Văn Bạch, Nguyễn Thanh Sơn, Võ Công Tồn và các ông Huỳnh Thiện Kim, Từ Bá Tước… Võ Công Tồn đã tích cực góp tài chánh cho nhà in sớm hình thành và hoạt động tốt. Đây là tờ báo Dân Chúng công khai (không xin phép chính quyền thực dân), in bằng chữ Việt của Đảng Cộng sản ở Sài Gòn.
Thời gian này, một số Đảng viên muốn Võ Công Tồn vào Đảng, nhưng ông từ chối. Theo ông, ở ngoài Đảng, sẽ làm được nhiều việc có lợi hơn cho Đảng.
Năm 1939, trong cuộc bầu cử Hội đồng quản hạt thành phố, Võ Công Tồn là ứng cử viên do Đảng cử ra và cũng là một nhân sĩ được tín nhiệm cao trong Nam Kỳ khởi nghĩa.
Thời gian này, toàn quyền Catroux ra chỉ thị nghiêm cấm mọi hoạt động có tính chất tuyên truyền Cộng sản, giải tán các hội, quần chúng của Đảng, đóng cửa hàng loạt tờ báo. Tuy vậy, những bài phản bác chống lại các nghị định, chỉ thị của bọn thực dân do Nguyễn An Ninh viết vẫn xuất hiện. Bọn Pháp ráo riết điều tra và cuối cùng chúng phát hiện và bắt được Nguyễn An Ninh ở ấp Lò Gạch. Một tuần sau, Võ Công Tồn cũng bị bắt về tội chứa chấp Nguyễn An Ninh. Ông bị giam tại Tà Lài cùng với các nhà hoạt động cách mạng như: Dương Quang Đông, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Tô Ký,…Ngày 16/4/1940, tòa tiểu hình Sài Gòn dưới quyền chủ tọa của chánh tòa Pierre tuyên án gần 100 người trong đó có Võ Công Tồn 4 năm tù, 10 năm biệt xứ. Sau đó, chúng đưa ông và nhiều nhà cách mạng ra Côn Đảo. Võ Công Tồn bị giam ở Banh II-là nơi giành riêng cho các nhà “Đại cách mạng” – thành phần nguy hiểm nhất của thực dân cùng Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Sữu, Trần Ngọc Danh,…Võ Công Tồn hy sinh tại nhà tù Côn Đảo ngày 16/6/1942, trong niềm thương tiếc vô hạn của anh em đồng chí. Sau khi Võ Công Tồn bị bắt, tại ấp Lò Gạch, hai chi bộ vẫn tiếp tục hoạt động một do Nguyễn Văn Cương -Bí thư và một do Nguyễn Văn Chác- Bí thư (gọi là chi bộ sản xuất, đặt tại lò gạch). Hai chi bộ này nhận lệnh rèn luyện võ thuật, tinh thần chờ ngày khởi nghĩa. Nam Kỳ khởi nghĩa thất bại, thực dân Pháp đàn áp, khủng bố khắp nơi, Lò gạch ông Võ Công Tồn bị thiêu hủy, 20 công nhân làm việc tại đây bị bắt.
Nói về Võ Công Tồn, giáo sư Trần Văn Giàu đã phát biểu: “Võ Công Tồn cùng với Nguyễn An Ninh là hình ảnh của “núi Hai Vì” hai tấm gương lớn về hoạt động cách mạng ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX”. Ghi nhận công ơn to lớn đó của Võ Công Tồn, ngày 4/6/1986 Hội đồng Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra quyết định tặng thưởng ông Huân chương kháng chiến hạng ba; tên của ông cũng được đặt cho một con đường tại tỉnh lỵ Long An (theo quyết định số 2554/QĐ.UB ngày 18/10/1997 của UBND tỉnh Long An).
Võ Công Tồn là một điền chủ tư sản, có học thức và có tinh thần yêu nước, giác ngộ cách mạng. Ông đã hoạt động tích cực cùng nhiều đồng chí gây dựng cơ sở cách mạng, ủng hộ cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại ách thống trị tàn bạo của bọn Pháp và tay sai. Võ Công Tồn và căn nhà tại ấp Lò Gạch đi vào lịch sử cách mạng vẻ vang của huyện Bến Lức – tỉnh Long An, thành phố Hồ Chí Minh và cũng như của nước ta thời kỳ trước năm 1945. Ngôi nhà của ông là một di tích lịch sử ghi dấu quá trình hoạt động của những nhà yêu nước và lãnh đạo Đảng Cộng sản như: Nguyễn An Ninh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai. Nơi đây chính là cơ sở tin cậy và phục vụ đắc lực cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Nam Kỳ trước năm 1945. Ngoài ra nó còn là địa điểm lưu niệm về Võ Công Tồn – một điền chủ tư sản trí thức yêu nước – người đã cống hiến nhiều công lao, tiền của cho sự nghiệp cách mạng.
Võ Công Tồn xuất thân từ gia đình địa chủ tư sản với hơn 200 mẫu ruộng, 3 lò gạch, 2 trại cưa, từng giữ chức Hội đồng quản hạt Sài Gòn – Chợ Lớn. Tuy vậy, ông rất ý thức về tình yêu quê hương đất nước, về cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và thủ đoạn của chúng đối với dân tộc Việt Nam. Thế nên ngay từ khi có các tổ chức yêu nước ra đời ông đã sẵn sàng tham gia vào để góp phần cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhất là từ khi gặp Nguyễn An Ninh, tiếp xúc với các nhà yêu nước và lãnh đạo cách mạng, Võ Công Tồn đã giác ngộ và đi theo con đường mà Đảng đã vạch ra. Ông không vào Đảng vì muốn lợi dụng địa vị xã hội của mình lúc bấy giờ giúp Đảng ở thế công khai. Cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Võ Công Tồn làm sáng lên quan điểm tư tưởng của Bác Hồ: tư tưởng “Đại đoàn kết toàn dân tộc” (Mọi tầng lớp đều đánh giặc) đồng thời thể hiện rất rõ phương châm hoạt động của Đảng ta là tổ chức các hình thức hoạt động công khai phục vụ lợi ích cách mạng. Phương châm này được phát huy mạnh mẽ trong suốt hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ. Chính các hình thức tổ chức hoạt động công khai giúp cho nhiều người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Võ Công Tồn là trường hợp điển hình.
Các hậu duệ của Võ Công Tồn đã kế thừa xứng đáng truyền thống cách mạng của ông tiêu biểu như: bà Võ Thúy Liên (con gái thứ 8 của Võ Công Tồn, sinh năm 1922) đã tham gia cách mạng suốt hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Và bà từng là cán bộ hoạt động nội thành dưới sự lãnh đạo của Trần Bạch Đằng và Nguyễn Văn Nguyệt (Ba Nguyệt), với nhiệm vụ in ấn tài liệu báo chí và hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chồng bà là liệt sỹ Nguyễn Thành Luông, ủy viên Thường vụ xứ Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ, phụ trách tuyên huấn, bị đích bắt giam cầm tra tấn và ở tù không án. Ông Võ Công Danh (con trai thứ 9 của Võ Công Tồn, sinh năm 1923) tham gia bộ đội 8 năm tại khu VIII Nam Bộ, tập kết ra Bắc đến năm 1973 về Nam là nhân viên Cục An Ninh ở R, rồi Cục Binh vận, năm 1975 tham gia tiếp quản Tổng Cục vật tư khu 8, sau đó chuyển về Sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh, hưu trí năm 1980. Ông Võ Công Hiền (con trai thứ 10 của Võ Công Tồn, sinh năm 1926) tham gia cách mạng và công tác tại địa phương ở Mặt trận Việt Minh, Liên Việt. Năm 1960, ông tham gia Ủy ban Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tỉnh Long An và phụ trách thể thao-văn nghệ, ông bị Mỹ-Diệm bắt và đày đi Côn Đảo với 15 năm tù không án. Sau ngày Miền Nam giải phóng (1975) ông được ra tù và tiếp tục làm việc ở Ban lịch sử Cách mạng xã Long Hiệp đến năm 1992.
4./ Loại di tích.
Di tích lịch sử “Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn” địa điểm lưu niệm các sự kiện lịch sử thời kỳ tiền cách mạng Tháng 8/1945 (nơi ghi dấu hoạt động cách mạng của các đồng chí Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn An Ninh và là địa điểm lưu niệm nhà yêu nước Võ Công Tồn).
5./ Khảo tả di tích.
Di tích gồm có 2 phần:
– Nhà Võ Công Tồn: là nơi thờ cúng gia tiên, nơi Võ Công Tồn sinh ra và lớn lên và đặc biệt nơi đây ghi dấu sự kiện Bác Tôn đến mở lớp dạy học, đồng thời truyền bá tư tưởng cách mạng chống thực dân Pháp.
– Khu lò gạch: là nơi ở và sản xuất, kinh doanh gạch ngói của Võ Công Tồn. Chính tại nơi đây, Võ Công Tồn đã nuôi giấu Nguyễn An Ninh và năm 1936, Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn An Ninh đã mở lớp truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin cho một số thanh niên Long Hiệp, công nhân lò gạch và một số phụ nữ do Võ Công Tồn tổ chức.
– Ngoài ra “Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn” còn là địa điểm lui tới thường xuyên của các nhà yêu nước và Lãnh đạo cách mạng.
5.1./ Nhà Võ Công Tồn:
Căn cứ vào hình ảnh, những kiến trúc còn lại của di tích, và lời kể một số nhân chứng ta có thể khảo tả sơ bộ phần di tích “Nhà Võ Công Tồn” như sau:
– Ngôi nhà tọa lạc trên khu đất có diện tích bằng diện tích hiện nay =7414m2, có hình chữ nhật. Khu đất này được trồng cây rậm rạp, bên ngoài được bao bởi lớp vòng rào cây xanh, kế đến là lớp hào đào sâu hơn 2m vì thế muốn vào nhà phải qua một cây cầu duy nhất. Tối đến, cầu được rút đi. Từ trong sân nhà, ta có thể quan sát bên ngoài rất rõ và ngược lại từ ngoài không thể quan sát bên trong. Ngoài ra, còn có đàn chó tinh khôn hỗ trợ nhanh chóng cho việc phát hiện kẻ địch nếu chúng đến rình mò. Đây chính là lợi điểm của di tích, so với hiện nay cảnh quan di tích vẫn không thay đổi nhiều, tuy vậy theo thời gian một số cây bị chết đi đã được trồng lại, hào thì cạn hơn, còn lại được một số loại cây lâu năm như: mít, mai, nhãn, khế…
Ngõ vào nằm về hướng Tây (hướng chính diện của ngôi nhà) luôn được khép kín. Vào ngõ, qua cầu đi khoảng 20m là đến sân nhà. Đứng ở đây, ta có thể quan sát được tương đối rõ ngôi nhà di tích. Bên phải ở góc sân là cây mít cao, cành lá sum xuê, bên trái ở góc sân là cây nhãn có góc rất to và trước sân trồng vài loại hoa kiểng và đây chính là sân trước của ngôi nhà có diện tích: 160m2, lát gạch thẻ. Mép bên trái của sân này nối với một sân rộng chạy dọc theo hông nhà, cũng được lát bằng gạch thẻ có diện tích rất rộng = 145m2 lúc bấy giờ nó là sân chơi quần vợt của gia đình. Ngôi nhà hiện nay mặt quay về hướng Đông nên sân trước của ngôi nhà di tích trở thành sân sau. Cả hai sân này vẫn còn nguyên hiện trạng nhưng bị xuống cấp không còn sử dụng được nữa.
Ngôi nhà do ông bà Võ Văn Suốt xây dựng vào những năm trước 1910, theo kiểu hình chữ “Công” ba gian, hai chái với chất liệu bê tông, mái ngói.
Nền nhà được đúc bằng gạch thẻ xử lý đứng và ốp đá hộc rất kiên cố cao 0,9m so với mặt đất và có diện tích 12×15 = 180m2.
Hai lối vào nhà là 2 tam cấp bằng gạch thẻ xử lý đứng, hai tam cấp này dẫn vào 2 cửa bên trái và phải cửa giữa. Khoảng cách giữa hai tam cấp là một tấm chắn được trang trí theo lối chắn song với chất liệu bê tông.
Hành lang được tạo bởi 6 cột bê tông trang trí đơn giản tạo nên 5 vòng cung ứng với 5 cánh cửa vào nhà. Cánh cửa làm bằng gỗ theo kiểu lá sách. Bên trong nhà trang trí theo lối truyền thống của ngôi nhà khá giả lúc bấy giờ: nền bằng gạch tàu, cột gỗ tròn với đôi câu đối, hoành phi, bao lam, khánh thờ, bàn ghế, ván, tủ,…được chạm trổ, trang trí theo đề tài tứ quí, tứ linh. Khoảng không gian trong ngôi nhà tính từ cột hàng ba trước đến hàng nhì sau được dùng làm nơi thờ tự và tiếp khách sang trọng. Ngoài ra, trên trần của khoảng không gian này còn treo ba cây đèn dây có chụp bằng đồng tahu.
Hành lang và cửa vào mặt sau của ngôi nhà cũng có nét kiến trúc như mặt trước, riêng lối vào nhà là một tam cấp dài bằng đá xanh (Andesite) và lối vào cửa giữa cũng bị ngăn bởi một lan can. Những lan can mặt sau của ngôi nhà cũng được trang trí theo lối chấn song.
Năm 1984, ngôi nhà này bị xuống cấp, cần được xây dựng lại, vì thế ông Võ Công Đức – cháu nội Võ Công Tồn đã phá bỏ nó đi, đồng thời tận dụng lại móng, nền, ngói cua nó để kết hợp dựng lại một ngôi nhà mới có diện tích = (9,2×14)=128m2. Ngôi nhà mới xây trên nền móng của ngôi nhà cũ và quay mặt về hướng Đông với kết cấu 3 gian đơn giản: mái ngói, vách và cột bằng bê tông, nền lát gạch tàu (lục giác). Nhà chỉ có 1 cửa vào, 2 cửa hông, không có cửa sau và 1 buồng nằm ở góc cuối nhà về phía trái có diện tích = (2,5×2,5)m2.
Cửa vào nhà theo kiểu bánh ú và là cửa vào duy nhất nên để có đủ ánh sáng bên trong nhà có rất nhiều cửa sổ: mặt trước 2 cửa sổ, 2 bên hông mỗi bên có 3 cửa sổ và mặt sau có 3 cửa sổ. Tất cả cửa của ngôi nhà bằng gỗ và được làm theo kiểu lá sách.
Vì chủ yếu để thờ tự và họp mặt gia đình vào ngày cúng giỗ nên chiếm phần lớn ngôi nhà là khoảng không gian thờ tự và tiếp khách. Bên trong trang trí theo lối truyền thống.
Gian giữa từ cửa vào đặt 1 bàn tròn bằng gỗ cẩn xà cừ có đường kính mặt 0,9m, cao 0,9m. Kế đến là bàn dài bằng gỗ gõ có kích thước = 1,6m x 0,9m x 0,9m. Tiếp theo là 1 bàn mặt đá cẩm thạch đặt ngang dùng làm bàn thờ có kích thước = 0,6m x 1,2m x 0,8m. Và tiếp theo bàn này là một bàn độc bằng gỗ cẩn xà cừ, chân cao dùng làm bàn thờ kích thước = 0,65m x 1,2m x 1,4m, nối tiếp cuối cùng là 1 bàn bằng gỗ có kích thước = 0,8m x 1,5m x 1,4m dùng làm nơi đặt thang và thức cúng – tất cả các bàn thờ đặt ngang và sát nhau, sát đến vách sau.
Phía trên bàn thờ, sát vách sau, cách mặt đất khoảng 2m đặt một khánh thờ 0,5m x 1,2m x 1,2m.
Hai gian bên phải và trái tính từ cửa vào, mỗi bên đặt 1 bàn tròn gỗ có kích thước bằng nhau, đường kính mặt bàn = 1,2m, cao 1,2m. Kế tiếp 2 bàn tròn gỗ và song song bàn dài giữa nhà là 2 bộ ván gõ: Gỗ mặt ván dày 0,00m (1 bộ gồm 3 tấm ván ghép lại, 1 bộ 2 tấm). Kế tiếp 2 bộ ván là 2 bàn mặt đá cẩm thạch màu trắng ngà nằm dọc sát 2 vách hông: 1 bàn có mặt chữ nhật có kích thước 0,8m x 0,5m x 0,8m; 1 bàn có mặt hình chữ nhật khuyết 4 góc có kích thước 0,65 x 0,8m x 0,8m. Kế tiếp bàn này là một bàn gỗ có nhiều hộc kích thước 0,7 x 0,8m x 1,4m. Cuối cùng là 2 tủ bằng gỗ mun đặt sát hông bên phải gần cuối nhà: 1 tủ có 2 mặt gương dày, trên đỉnh mặt trước có trang trí hình chim phượng; 1 tủ trang trí tiện khắc trông rất đẹp và vững chắc. Hai tủ bằng nhau có kích thước: 2,20m x 0,5m x 1,15m.
Những gì còn lại ở nhà Võ Công Tồn đáng chú ý nhất là những sản phẩm chạm gỗ mà nổi bật là 3 bao lam và các khung chạm có hình ô hộc và đôi câu đối. Qua các di tích này, chúng ta có thể hình dung được quy mô của kiến trúc và trang trí ở nội thất của nhà Võ Công Tồn xưa như thế nào. Ba bao lam chạm lộng công phu được bố trí tại 3 gian thờ của 4 hàng cột giữa. Hai bao lam hai bên, phía trên chạm hoa hồng và chim sẽ, giữa chạm cây tùng và chim công, phía dưới là hoa cúc và chim hoàng anh, dưới cùng là mô típ bướm.
Bao lam trung tâm, phía trên chạm cây tùng và chim trĩ, hoa cúc và chim hoàng anh phía dưới, ở phía trên nơi trung tâm chạm dơi cách điệu. Ba bao lam đã thể hiện một thủ pháp tả thực sinh động bằng kỹ thuật chạm lộng tài tình, khéo léo của nghệ nhân có trình độ điêu luyện. Các đề tài được khắc hoa tỉ mỉ qua các lát đục sắc, gọn; những đường vuốt công phu; tỉa tách uyển chuyển, từ những cội tùng sấn sùi góc cạnh cho đến những chân chim, những cọng râu mảnh mai của bướm…
Cả ba bao lam tuy đồ án có hơi khác biệt nhưng điều hàm chứa ngụ ý cầu mong cuộc sống bình an (mô típ công), hạnh phúc (mô típ dơi), phú quý (mô típ chim) và trường thọ (mô típ tùng).
Khung dọc tại bốn cột gắn bao lam, các đề tài trang trí được thể hiện dạng cặp đôi, cảnh vật cẩn ốc xà cừ như: tùng lộc, mai hạc, ngoài ra còn có gà và bướm. Ở phía dưới và góc trên của khung chạm nổi mô típ dây lá. Phần chân các khung dọc của bao lam chạm nổi hình chân đôn.
Phía trên bao lam cho đến mái nhà là những khung chạm hình “ô hộc” chia làm bốn lớp ở giữa và hai lớp ở bao lam hai bên. Bố cục các khung “ô hộc” được sắp xếp đan xen rất hài hòa giữa các ô chữ nhật đứng, ô vuông, ô chữ nhật nằm ngang, khung lớn, khung nhỏ.
Ở các khung ô hộc, ngoài các đồ án trang trí dạng hình cọc như chấn song (dạng hình khối tròn), hồi văn chữ vạn, chạm lộng còn có các khung cẩn ốc xà cừ đề tài mai, lan, cúc, trúc, bầu rượu, …Nổi bật nhất ở các khung ô hộc là đề tài cây trái như khế, măng cục, bí,…được thể hiện rất công phu qua kỹ thuật chạm nổi trên nền chạm lộng hồi văn chữ vạn.
Chạm gỗ ở nhà Võ Công Tồn còn thể hiện trên bao lam khánh thờ qua các đề tài truyền thống như lưỡng long tranh châu ở trên, long ẩn vân ở hai bên và dơi ở giữa.
Các hiện vật như bàn tròn chân tiện kiềng ba chân được chạm nổi hoa văn dây lá cách điệu phương Tây.
Tóm lại, chạm gỗ ở nhà Võ Công Tồn mà nổi bật là các bao lam đã thể hiện một trình độ khá điêu luyện của các nghệ nhân. Đề tài đa dạng, được thể hiện rất sinh động bằng các kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, cẩn ốc xà cừ rất công phu. Ở đây, ngoài các yều tố truyền thống như “tứ thời” yếu tố dân gian cũng được đưa vào khá nhiều như khế, bí, bướm, gà,…bên cạnh phong cách mỹ thuật phương Tây như dây, lá, hoa hồng, song tiện. Sự phong phú và đa dạng về đề tài trên các sản phẩm chạm gỗ ở nhà Võ Công Tồn đã phản ánh khá rõ nét xu hướng thẩm mỹ vào thời kỳ này ở Nam Bộ trong điêu khắc, trang trí mỹ thuật đã vượt ra khỏi những ràng buộc bởi những qui phạm khắc khe của mỹ thuật phong kiến, sản phẩm của những nghệ nhân điêu khắc tài ba tiền bối còn lại ở di tích nhà Võ Công Tồn thật sự là những hiện vật, những tư liệu quí.
Sân sau (của ngôi nhà cũ) có diện tích (10×15)m2 lát gạch lục giác đây là nơi luyện tập võ nghệ, chuẩn bị khởi nghĩa của nghĩa binh Thiên địa hội từ năm 1913-1916 (nhà Võ Công Tồn lúc này là một cơ sở của tổ chức “Thiên địa hội”). Năm 1927, sau giờ học chữ Bác Tôn dạy học trò rèn luyện thân thể bằng cách múa quyền, đi roi. Hiện nay, sân được tráng bê tông để làm sân phơi.
Bên phải của sân sau là nhà ăn, bên trái là lẫm lúa. Nhà ăn và lẫm lúa quay mặt ra sân, 3 gian 2 chái lòng trính, với mái ngói móc tường gạch. Năm 1978, nhà ăn được xây dựng lại 3 gian 2 chái và nối đôi. Nhà có vách bê tông, mái ngói âm dương, nền lát gạch tàu và hiện nay dùng để ở.
Lẫm lúa: trước năm 1927, ông Võ Văn Suốt đã dùng 1 gian trong 3 gian của lẫm lúa để dạy chữ Hán cho con em trong làng. Đến năm 1927, Bác Tôn Đức Thắng dùng lớp học này dạy một số học trò học chữ Hán và truyền bá tư tưởng cách mạng. Hiện nay, lẫm lúa không còn lại gì ngoài phần nền (diện tích 25,5m x 5,7m = 145,35m2) và trên đó còn dựng lên 3 gian nhà đơn giản với mái tôn cột gỗ, không vách, dùng làm nơi chứa nông cụ.
Tóm lại, nhà Võ Công Tồn không những là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi thờ cúng gia tộc của gia đình ông, mà còn là nơi cơ sở của Thiên địa hội, nơi Bác Tôn có lần về dạy học, tuyên truyền tư tưởng cách mạng chống thực dân Pháp và cũng là nơi lui tới của những nhà yêu nước…nay chỉ còn lại nền móng, sân, và những hiện vật bên trong.
5.2./ Khu lò gạch:
Là nơi Võ Công Tồn sản xuất kinh doanh gạch ngói, nơi đây, trước đây gồm có các ngôi nhà như: nhà ở của Võ Công Tồn, nhà ở công nhân, nhà công xi, nhà phơi gạch, 3 lò gạch…Hiện nay, những nơi này chỉ còn lại vài dấu tích nền móng.
Nhà ở của Võ Công Tồn:
Là một ngôi nhà được xây bằng gỗ theo kiểu nhà sàn, dân gian gọi là nhà cao cẳng nóc bánh ít vuông vức, nơi gia đình Võ Công Tồn ở trông nom lò gạch nhưng khoảng năm 1930 bị sét đánh sập không còn dấu tích gì. Sau đó ông ở tại một ngôi nhà của người thân cũng tại khu lò gạch của ông. Ngôi nhà này hiện nay chỉ còn nền móng, có diện tích là: (7,6m x 7,5m) + (2,1m x 3,3m) = 63,93m2, nền còn lại cao 0,8m được xây bằng gạch thẻ xử lý đứng.
Các nhà khác như: nhà ở công nhân, nhà công xi, nhà phơi gạch chỉ còn nền móng bằng bê tông có diện tích:
+ Nhà công nhân ở có diện tích: 16,3m x 15,7m = 255,91m2
+ Nhà công xi có diện tích: 8,1m x 3,5 m = 28,35m2
+ Nhà phơi gạch có diện tích: 6,6m x 9,2m = 60,72m2
Lò gạch chỉ còn lại một cửa lò gạch hình vòm cung được xây bằng gạch thẻ cao 4-7m, đường kính lớn nhất 9m và diện tích nền còn lại: (4,5m)2 x 3,14 = 63,59m2
Tất cả nằm trên khu đất rộng có diện tích 15.973m2 trong vườn cây ăn trái xanh um, hiện là sở hữu của bà Phan Thị Sáu (cháu dâu của Võ Công Tồn).
Chính tại khu lò gạch này là cơ sở tin cậy của Đảng, nhiều nhà yêu nước đã đến đây và nhất là Nguyễn An Ninh. Đặc biệt năm 1936 đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn An Ninh đã mở lớp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hiện nay, trên khu đất ló gạch có nhà của bà Phan Thị Sáu gồm 3 gian xây bằng bê tông, mái ngói ở sau nền nhà của Võ Công Tồn.
Nhìn chung, những kiến trúc nhà ở, lò gạch, nhà của khu lò gạch hiện nay đã hoàn toàn sụp đổ, chỉ còn lại những dấu tích như nền móng phần còn lại của lò gạch và cảnh quan…kết hợp với nội dung của di tích chỉ phần nào gợi tưởng lại qui mô kiến trúc, về một cơ sở cách mạng tin cậy cũng như về nơi lưu niệm điền chủ yêu nước Võ Công Tồn. Vì thế, để phát huy hết tác dụng của một di tích cách mạng, làm toát lên được nội dung của nó thì di tích “Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn” – Cơ sở cách mạng thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám 1945 ở Nam Bộ này cần được đăng ký bảo vệ, phục dựng.
Với những giá trị trên di tích lịch sử “Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn” đã được UBND tỉnh Long An ra quyết định đăng ký tại số 3639/QĐ-UB ngày 18 tháng 12 năm 2000. Di tích này xứng đáng là di tích lịch sử cấp quốc gia để tạo nền tảng pháp lý cho việc gìn giữ, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị, nhất là về mặt giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ mai sau.
6./ Gía trị lịch sử.
“Nhà và lò gạch Võ Công Tồn” là một di tích lịch sử cách mạng ghi dấu một cơ sở tin cậy của Đảng và các phong trào yêu nước trước năm 1945; là nơi ghi dấu một số hoạt động của những nhà yêu nước và lãnh đạo cách mạng như Nguyễn An Ninh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai; là một bằng chứng cho việc truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin của Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai,… trên đất Long An nói riêng và Nam Bộ nói chung thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Ngoài ra, nó còn là nơi lưu niệm nhà yêu nước Võ Công Tồn – người đã cống hiến rất nhiều công của và cả tính mệnh cho Đảng trong thời kỳ Đảng còn non trẻ.
IV/ “ KHU TƯỢNG ĐÀI BẾN LỨC ” NƠI GHI DẤU SỰ KIỆN ĐẤU TRANH
CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN LAO ĐỘNG
NGÀY 4 THÁNG 6 NĂM 1930
(Thị Trấn Bến Lức, huyện Bến Lức tỉnh Long An).
1./Tên gọi di tích .
“Khu vực tượng đài Bến Lức” là phần đất trước UBND Thị trấn Bến Lức (Thời Pháp là nhà Việc của Ban hội tề Tổng Long Hựng Hạ ) sát chợ cũ Bến Lức.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày 4/6/1930 hơn 1000 quần chúng nhân dân lao động đã biểu tình kéo từ An Thạnh về đấu tranh tại nơi đây. Năm 1986 huyện Bến Lức đã xây dựng tại địa điểm này một công trình tôn tạo: Tượng đài người phụ nữ giương cao cờ đỏ búa liềm để thể hiện đúng với tinh thần đấu tranh của ngày xưa.
Trước đây mọi người đều biết sự kiện ấy đã xảy ra tại nơi đây, mà phần đất này thuộc khu vực Chợ Bến Lức chớ nó không hề có tên gọi riêng cụ thể. Từ sau khi xây dựng tượng đài thì nhân dân địa phương đều gọi địa điểm này là khu vực Tượng đài Bến Lức, nơi ghi dấu sự kiện đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống sưu cao thuế nặng 4/6/1930.
2./ Địa điểm di tích.
Di tích “Khu vực tượng đài Bến Lức” nằm tại Thị trấn Bến Lức về hướng Đông Bắc Tân An (Long An) cách Thành phố 13km. Đường đến di tích bằng con đường chính sau:
– Từ Thành phố Tân An theo quốc lộ I, hướng về TP.Hồ Chí Minh 12km là đến ngã ba quốc lộ I và tỉnh lộ 31 (Nay là 830) quẹo trái theo tỉnh lộ 830 vào Thị trấn Bến Lức khoảng 700m là đến di tích.
3./ Sự kiện và nhân vật lịch sử.
Ngày nay đến Thị trấn Bến Lức ta sẽ gặp ngay một tượng đài người phụ nữ giương cao cờ mà ai ai cũng biết rằng tại khu vực tượng đài này ngày 4/6/1930 người phụ nữ ấy đã đi đầu trong cuộc biểu tình dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh chống sưu cao thuế nặng.
Ngày 3/2/1930 ba tổ chức Đảng hợp nhất ở Hương Cảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Đến tháng 3/1930 ở Trung Quận một số làng đã thành lập các Chi bộ, trong thời gian này đ/c Nguyễn Văn Tuôi làm bí thư Chi bộ Long Phú và lãnh đạo các phong trào đấu tranh luôn cả làng An Thạnh. Cuộc biểu tình của nhân dân làng An Thạnh do vợ Hương Chánh Huỳnh Văn Thâu là bà Võ Thị Thú dẫn đầu kéo về chợ Bến Lức ngày 4/6/1930 là do Chi bộ Đảng Long Phú lãnh đạo nằm trong đợt các Chi ủy ở Trung Quận phát động phong trào đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1930.
Cuộc biểu tình được tổ chức ngày 4/6/1930 Chi bộ Đảng đưa ra khẩu hiệu và yêu sách “bỏ thuế thân” do vợ Hương Chánh Huỳnh Văn Thâu dẫn đầu. Bà Võ Thị Thú người gốc Thanh Hà sinh 1879. Vợ chồng Hương Chánh Huỳnh Văn Thâu là một chức sắc trong tề làng An Thạnh rất có uy tín trong quần chúng nhân dân và được giác ngộ cách mạng. Cho nên có khả năng qui tụ một lực lượng quần chúng đông đảo.
Diễn biến cuộc biểu tình:
– Về phía ta: Dưới sự lãnh đạo của Chi ủy Long Phú (Đ/c Nguyễn Văn Tuôi làm Bí thư) sáng ngày 4/6/1930 một lực lượng quần chúng đông đảo làng An Thạnh được qui tụ gần trên 1000 người tập trung ở khu vực Đình An Thạnh (Đình An Thạnh ngày nay thuộc ấp 2 xã An Thạnh).
(Theo đ/c Nguyễn Văn Chí Ủy viên Trung ương Đảng nay là cán bộ hưu trí người gọi bà Chánh Thâu bằng cô – nói rằng trong làng lúc ấy mọi người đều đi hết).
Tất cả mọi người đều mặc đồ đen, phụ nữ mặc áo dài đen, băng ron, biểu ngữ cũng bằng vải đen và viết bằng voi trắng nội dung: “Bỏ thuế thân”, “Chia đất công điền cho dân cày nghèo”. Đoàn biểu tình có mang theo trống, đánh liên hồi để tăng thêm khí thế đấu tranh. Dẫn đầu là bà Võ Thị Thú và vợ Hương Bộ Lê Văn Thảo theo lộ Lương Hòa (830) tiến về hướng chợ Bến Lức. Đoàn biểu tình kéo về nhà Việc An Thạnh (Nay là phần đất nhà kho công ty Lương thực – dưới chân cầu An Thạnh thuộc ấp 1 xã An Thạnh) hô vang khẩu hiệu đòi bỏ thuế thân và chia đất công điền cho dân cày nghèo. Trước khí thế của đoàn biểu tình bọn tề làng An Thạnh khiếp sợ lẫn trốn, đoàn biểu tình tiếp tục kéo qua cầu An Thạnh tiến về chợ Bến Lức.
– Về phía địch: Bấy giờ tại chợ Bến Lức có một đội lính khoảng 2 tiểu đội được trang bị bằng súng 24 (loại súng ngắn 1 nòng nạp 1 viên đạn thường gọi là súng oảnh cách) đặt dưới sự chỉ huy của Cai Tổng – Tổng Long Hưng Hạ Trần Văn Cương (thường gọi là huyện Cương).
Đoàn biểu tình kéo đến Nhà Việc của Ban Hội Tề Tổng Long Hưng Hạ (nay là khu nhà UBND Thị trấn Bến Lức) thì dừng lại hô vang khẩu hiệu, bà Võ Thị Thú dẫn đầu giương cao cờ đỏ và tiến lên yêu cầu gặp Cai Tổng Cương để đưa yêu sách. Trước khí thế mạnh mẽ đó cả Ban Hội Tề và lực lượng trấn áp của chúng là 2 tiểu đội lính đều tê liệt, kết quả Cai Tổng Cương đã phải chấp nhận yêu sách và hẹn ngày mai sẽ có quan lớn trên Tỉnh xuống Ngã ba Thanh Hà giải quyết. Thế là cuộc biểu tình đã đạt được thắng lợi.
Lập tức các đ/c trong Chi bộ Long Phú phân công đi vận động đồng bào các làng Phước Vân, Long Hiệp, Long Phú, Thanh Hà, Tân Bửu đúng hẹn hôm sau nghe tiếng tù và (đ/c Phạm Văn Khương thổi) thì tập trung về ngã ba Thanh Hà đêm ấy các đ/c không sao ngủ được. Riêng ở An Thạnh thì mọi người rạo rực chuẩn bị cho cuộc xuống đường ngày hôm sau. Đêm đó bà Võ Thị Thú cho làm thịt một con heo và xôi 2 giạ nếp, các bà, các chị thức tận khuya nấu xôi chuẩn bị, trống đình An Thạnh giục giã suốt đêm 4/6, truyền đơn rải khắp làng An Thạnh.
Theo đúng hẹn ngày 5/6 /1930 các đ/c Nguyễn Văn Nhâm, Phạm Văn Khương tổ chức diễn thuyết ở Bình Nhựt tập hợp đông đảo quần chúng hai làng Bình Đức, Bình Chánh cùng kéo về phối hợp với Long Phú và An Thạnh. Lần này địch nham hiểm đã chuẩn bị trước tăng cường lực lượng đàn áp là lính khố xanh. Chúng chặn cánh này không cho đi tới, đ/c Nguyễn Văn Nhâm đứng lên phản đối và kêu gọi đồng bào cứ tiến lên, bọn lính nổ súng đàn áp và bắt nhiều người buộc đám đông phải giải tán.
Trong khi đó ở Long Phú khoảng 500 quần chúng được vận đông kéo về theo sự chỉ đạo thống nhất. 8 giờ sáng tên Tham biện Pháp (Renault) đến cùng với cai tổng Cương, Tề làng Long Phú và tốp lính khố xanh đầy đủ súng ống. Cai tổng Cương ra lệnh mọi người ngồi xuống nhưng đám đông vẫn cứ tiến lên, Cai tổng Cương cho lính nổ súng và bắt đi 3 người.
Riêng cánh An Thạnh ngày hôm sau được chuẩn bị nên lực lượng đông đến gần 2000 người. Đoàn biểu tình kéo đến Cống Bấn (nay là cống Tư Hữu) thuộc ấp 1 xã An Thạnh, cách cầu An Thạnh khoảng 1000m, lúc ấy khoảng 10 giờ thì gặp bọn địch, chúng vừa đàn áp xong ở Long Phú lập tức kéo sang An Thạnh. Được lệnh của Tham biện Renault lính khố xanh nổ súng đàn áp dữ dội bọn chúng xé cờ và bắt đi khoảng 30 người trong đó có bà Võ Thị Thú và vợ Hương Bộ Lê Văn Tảo mà chúng cho là những người cầm đầu.
Cuộc biểu tình tuy bị đàn áp nhưng đã gây được một chấn đông lớn lao. Lần đầu tiên trong một vùng nông thôn yên tĩnh là làng An Thạnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổ ra một cuộc biểu tình, đấu tranh chạm trán quyết liệt với kẻ thù trực tiếp đòi quyền sống về cho người dân lao động đã bị bóc lột áp bức bao đời nay.
Cuộc biểu tình ngày 4 và 5/6/1930 (mà tiêu biểu là ngày 4/6 đạt được thắng lợi) của quần chúng nhân dân làng An Thạnh kéo về Chợ Bến Lức là đỉnh cao của phong trào đấu tranh cho đến lúc ấy ở Trung Quận.
4./ Loại di tích.
“Khu vực tượng đài Bến Lức” là di tích lịch sử ghi dấu sự kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân Bến Lức nói riêng của Tỉnh Chợ Lớn (nay là Long An) nói chung.
Nơi đây là đại điểm lưu niệm một đại danh lịch sử: “Khu vực tượng đài Bến Lức” nơi đã diễn ra cuộc đấu tranh chống sưu cao thuế nặng 4/6/1930.
5./ Khảo tả di tích.
Di tích ngày nay đã biến đổi hoàn toàn, chỉ còn mảnh đất trước UBND Thị trấn Bến Lức là địa điểm ghi dấu mang tính lịch sử của cuộc đấu tranh. Mảnh đất đó năm 1986 được huyện Bến Lức quy hoạch và xây dựng một công trình tôn tạo: tượng đài người phụ nữ. Khu vực tượng đài có hình tam giác được tạo thành do 3 hàng rào sắt, diện tích 264m2, trong đó diện tích trưng bày tượng là 9m2. Trong mặt bằng khu tượng đài được phân ra làm bục trồng hoa bằng xi măng giữa các bục là lối đi. Trước mặt tượng đài là 2 cửa ra vào.
Tượng đài Bến Lức là tượng đài người phụ nữ có độ tuổi khoảng trên 45. Tóc búi phía sau theo cách búi tóc của người phụ nữ Nam Bộ, mặc áo dài Nam Bộ kiểu xưa, tà áo trước phất ra sau, tay trái duỗi xuống cầm cán cờ phía dưới, tay phải cầm giữa cán cờ nâng ngang khảo đầu. Chân trái bước lên phía trước, đầu ngẩng cao dưới lá cờ đỏ búa liềm.
Tượng đài hướng về phía Đông Bắc Thị xã Tân An. (Nếu đi từ tỉnh lộ 830 vào Thị trấn Bến Lức đến khu vực di tích thì sẽ thấy tượng đài hướng về phía tay trái hơi nghiêng với UBND Thị trấn).
Tượng đài có tổng chiều cao là 7,8m bằng chất liệu xi măng gồm ba phần:
1/ Chân tượng đài: Ở phía dưới cùng là một bục xi măng hình tròn bao xung quanh có đường kính là 5,6m và độ cao cách mặt đất là 0,25m.
2/ Bục tượng đài: có hình khối hộp chữ nhật đứng: chiều cao là 2,6m cạnh đáy nhỏ là 0,65m, cạnh đáy lớn 1,4m. Chiều cao và cạnh đáy nhỏ tạo thành mặt chính của bục. (Tức mặt hướng về phía trước của tượng đài). Chiều cao và hai cạnh đáy lớn tạo thành hai mặt phụ hai bên. Hai mặt phụ hai bên của bục là hai bức phù điêu có chiều cao là 1,7m. Chiều ngang của bức phù điêu là một đường cong 1,6m từ mặt chính ra mặt sau về phía bên trái tượng, và một chiều ngang 1,4m cong từ mặt sau ra mặt chính và cách mặt chính 0,2m về phía bên phải tượng. Hai bức phù điêu hai bên cách chân bục 0,35m và cách đỉnh bục 0,55m. Phù điêu chạm trổ hình quần chúng nhân dân tham gia trong cuộc biểu tình.
Nếu nhìn từ trên xuống thì hai bức phù điêu có hình hai tam giác áp sát vào hai mặt phụ của bục. Mặt chính của bục có bia ghi dấu đề hàng chữ: nơi đây ngày 4/6/1930 Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh chống sưu cao thuế nặng. Bia làm bằng đá cẩm thạch có chiều ngang 0,5m, chiều đứng 0,65m.
3/ Thân tượng: là phần tượng người phụ nữ cầm cờ có tổng chiều cao từ chân đến đỉnh cờ là 5m. Trong đó từ chân đến đầu là 3,5m, từ đầu đến đỉnh cờ là 1,5m. Là cờ có chiều ngang 1,2m và chiều dài 1m. Cán cờ dài 2,5m.
Tượng đài Bến Lức là một công trình tôn tạo mang giá trị lịch sử truyền thống. Nó không những tái hiện được khí thế và tinh thần của nhân vật trong sự kiện lịch sử 4/6/1930, mà tượng đài còn là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của người phụ nữ Bến Lức nói riêng, của nhân dân Bến Lức – Long An nói chung.
Chủ nghĩa yêu nước ấy dưới ngọn cờ của Đảng càng được tiếp nối và phát huy hơn nữa truyền thống oai hùng của cha ông thuở trước.
6./ Gía trị lịch sử.
Di tích khu vực tượng đài Bến Lức địa điểm ghi dấu sự kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân An Thạnh nói riêng của Trung Quận – Chợ Lớn (nay là Bến Lức – Long An) nói chung, dưới sự lãnh đạo của Đảng khi lần đầu tiên tại nơi đây ngày 4/6/1930 đã diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt mà người nông dân đã chạm trán trực tiếp với kẻ thù để đòi quyền sống về cho người dân lao động đã bị áp bức bao đời nay.
Di tích lịch sử “Khu vực tượng đài Bến Lức” mà sự kiện là cuộc biểu tình ngày 4/6/1930 của quần chúng nhân dân An Thạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng kéo về chợ Bến Lức là đỉnh cao của phong trào đấu tranh cách mạng cho đến lúc ấy ở Trung Quận. Nó chứng minh cho khả năng lãnh đạo và vận động quần chúng đấu tranh của Đảng và thể hiện lòng tin của nhân dân lao động đối với sự lãnh đạo của Đảng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Chi bộ Đảng các làng An Thạnh, Long Phú vừa mới ra đời đã tổ chức được một cuộc đấu tranh với tầm vóc như thế cáng thể hiện được đó là một thắng lợi lớn trong bối cảnh thực dân Pháp đàn áp khủng bố rất dã man.
Cũng qua cuộc đấu tranh đó, hành động dũng cảm của bà Võ Thị Thú khi giương cao cờ đỏ búa liềm dẫn đầu biểu tình đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.
Có thể nói rằng cuộc biểu tình ngày 4/6/1930 của quần chúng nhân dân An Thạnh kéo về chợ Bến Lức là một trong những phát súng nã trực tiếp vào pháo đài chế độ thực dân phong kiến.
Với giá trị lịch sử như thế, di tích “Khu vực tượng đài Bến Lức” càng thể hiện được tác dụng giáo dục truyền thống cách mạng địa phương.
Ngày nay di tích là niềm tự hào về truyền thống đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân huyện Bến Lức.
V/ “RỪNG TRÀM BÀ VỤ” CĂN CỨ CÁCH MẠNG
TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
( Thuộc các xã Lương Hòa, An Thạnh, Tân Bửu, Tân Hòa )
1./ Tên gọi di tích.
Rừng Tràm Bà Vụ nằm về phía Bắc huyện Bến Lức thuộc khu vực có địa hình trũng thấp ven bờ Vàm Cỏ Đông. Vào đầu thế kỷ XX đất đai nơi này còn hoang hóa, tràm mọc thành rừng. Người Pháp bèn đào kinh tháo chua, rửa mặn, di dân đến khai hoang lập thành làng xóm. Con kinh Bà Vụ hiện nay được đào vào những năm 30 của thế kỷ này. Lúc ấy có một người đàn bà đến sống bằng nghề bán rượu ở đầu kinh. Người ta bèn gọi bà là bà rượu và gọi luôn con kinh là kinh Bà rượu. Dần dần theo cách đọc không đánh lưỡi của người Nam Bộ kinh Bà Rượu được đọc trại thành kinh Bà Vụ. Toàn thể vùng đất này cũng được gọi là rừng Tràm Bà Vụ, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta, rừng tràm Bà Vụ là căn cứ cách mạng nằm trong hệ thống liên hoàn các căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ – Láng Le Bàu Cò lừng danh trên đất Long An.
2./ Địa điểm di tích .
Di tích lịch sử rừng tràm Bà Vụ tọa lạc trên một vùng đất rộng lớn trên 4 xã: Lương Hòa, An Thạnh, Tân Bửu, Tân Hòa (Xã mới thành lập năm 1992) trước đây thuộc Trung Quận tỉnh Chợ Lớn nay thuộc huyện Bến Lức tỉnh Long An, hiện nay thuộc 4 xã: Lương Hòa, An Tạnh, Tân Bửu, Tân Hòa huyện Bến Lức tỉnh Long An.
Đường đi đến di tích:
a.Đường bộ: Du khách đến Thị trấn Bến Lức theo tỉnh lộ 31 (nay là lộ 830) đi về phía Đức Hòa, đến cầu Gia Miệng rẽ phải theo con đường đất 4,2km thì đến di tích.
b.Đường thủy: Du khách đến Thị trấn Bến Lức, theo sông Bến Lức đến Vàm kinh Giồng Dung, theo kinh Giồng Dung 3km thì đến di tích.
3./ Sự kiện và nhân vật lịch sử.
Nhắc đến huyện Bến Lức ai cũng nghĩ ngay đến địa danh Rừng Tràm Bà Vụ với những tên đất, tên làng đã một thời vang bóng. Vùng đất chiến khu xưa, Rừng Tràm Bà Vụ gắn liền với những trang sử vẻ vang của Miền Nam trong hai thời kỳ kháng chiến và là nổi kinh hoàng của thực dân Pháp cũng như đế quốc Mỹ xâm lăng.
Nói chung đất Bến Lức trong đó có Rừng Tràm Bà Vụ là một địa phương có truyền thống yêu nước và vị trí hết sức chiến lược về quân sự và chính trị.
Tháng 8/1945 dân tộc Việt Nam đứng lên giành lại độc lập tự do từ tay thực dân Pháp sau hơn 80 năm dài nô lệ. Ở Nam Bộ ngày 22/8 tỉnh Tân An khởi nghĩa đầu tiên đến ngày 25/8 chính quyền tỉnh Chợ Lớn cũng về tay nhân dân. Ủy Ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ và UB hành chánh kháng chiến các tỉnh được thành lập ngày 23/9/1945. Thực dân Pháp theo chân quân Anh tái chiếm Sài Gòn, nhân dân Nam Bộ vừa hưởng không khí độc lập một tháng lại bước ngay vào cuộc chiến đấu mới. Với quyết tâm “ Không chịu mất nước không chịu làm nô lệ” người dân Nam Bộ nốp với giáo trên vai không ngại hy sinh gian khổ quyết tâm đánh bại mưu đồ xâm chiếm lâu dài đất nước ta của thực dân Pháp. Thực hiện sách lược đánh Pháp “Toàn dân, toàn diện và trường kỳ kháng chiến” của Bác Hồ, lực lượng cách mạng Miền Nam vừa ngăn cản không cho địch lấn chiếm, vừa thành lập những khu căn cứ đề chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Rừng Tràm Bà Vụ là một trong những nơi có đầy đủ điều kiện để xây dựng một căn cứ cách mạng vững chắc.
-Trước hết đây là mảnh đất có truyền thống cách mạng, phong trào quần chúng vững mạnh. Các đ/c Nguyễn An Ninh, Châu Văn Liêm, Võ Văn Tần, Hồ Văn Long,… đã dày công xây dựng cơ sở Đảng ở nơi đây.
– Về vị trí địa lý: đây là khu vực gần Thành phố Sài Gòn, đất đai rộng lớn, dân cư không đông, địa hình chủ yếu vườn thơm, rừng tràm, đường giao thông không thuận lợi cho địch nếu chúng muốn vào căn cứ.
– Thế chiến lược: vị trí Rừng Tràm Bà Vụ nằm án ngữ phía Tây, Tây Nam Sài Gòn, cạnh lộ 4 và sông Vàm Cỏ Đông. Từ đây ta có thể dễ dàng bao vây, công kích Sài Gòn và khi cần có thể mau chống rút lui về cố thủ.
Cũng từ đây ta khống chế lộ 4 – con đường huyết mạch từ Sài Gòn xuống Miền Tây và sông Vàm Cỏ Đông thủy lộ duy nhất thông thương xuống vùng đồng bằng trù phú. Từ vị trí này ta có thể chặn đứng những đợt tấn công của địch xuống các tỉnh phía Tây qua lộ 4 hoặc sông Vàm Cỏ. Khu Rừng Tràm Bà Vụ cũng là điểm tập kết quân lý tưởng để tấn công Miền Đông và vùng nam lộ 4. Sau lưng vùng này là khu vực đồng bằng màu mỡ đầy đủ sức của, sức người có thể phục vụ cho công cuộc kháng chiến lâu dài.
Rừng Tràm Bà Vụ còn là hành lang chiến lược trong một hệ thống liên hoàn các căn cứ cách mạng, nối liền chiến khu Miền Đông với căn cứ Đồng Tháp Mười và khu căn cứ Đông Thành ở Đức Huệ.
Với những điều kiện như thế Rừng Tràm Bà Vụ mau chóng trở thành một căn cứ cách mạng bên cạnh Sài Gòn Chợ Lớn. Sau ngày 23/9 các cơ quan đầu não của cách mạng đã về đóng ở khu liên hoàn các căn cứ vườn thơm Bà Vụ – Láng le Bầu Cò như: Xứ Ủy Nam Kỳ, UB hành chánh kháng chiến Nam Bộ, Bộ chỉ huy quân sự Nam Bộ, Sở Công An Nam Bộ, UB hành chánh kháng chiến Chợ Lớn, Thành ủy Sài Gòn Gia Định, Huyện Ủy Trung huyện, Đức Hòa… Trung tướng Nguyễn Bình Ủy viên quân sự Nam Bộ, khu trưởng Khu VII người đã tổ chức lại lực lượng kháng chiến ở Miền Nam cũng về đóng ở nơi đây các cơ quan này chủ yếu sống ở ấp Tân Hòa, xã Tân Bửu. Ngoài các cơ quan lực lượng quân đội như: Chi đội 12, Chi đội 15, Chi đội 6, Chi đội 4, tiểu đoàn cảm tử của lực lượng công tác thành cũng về đóng ở căn cứ. Từ căn cứ này cơ quan lãnh đạo đã chỉ huy các lực lượng vũ trang của ta tiến hành đánh các đồn bót xung quanh gây cho chúng nhiều tổn thất. Giặc Pháp từ chỗ ngạo mạn coi cuộc hành quân của chúng “Chỉ là cuộc dạo chơi quân sự rộng lớn, mặc dù có súng nổ lác đác đó đây…” (Theo “Lịch sử chiến tranh Đông Dương”) đến năm 1946 tướng Lecler trước khi rời Đông Dương phải nhận định rằng không thể thắng ta về mặt quân sự.
Trước tình hình đó Pháp quyết định tấn công vào căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ hòng tiêu diệt lực lượng quân sự và đầu não kháng chiến của ta. Đêm 14 rạng 15 tháng 4 năm 1948 giặc Pháp theo kế hoạch De Latour mở cuộc hành quân lớn vào căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ. Chúng huy động nhiều tiểu đoàn thuộc lực lượng Âu Phi, Lê Dương Pactidang.. cùng pháo binh, không quân, 4 tàu đầu bằng, 15 tăng lội nước tấn công vào Láng Le – Bàu Cò. Lực lượng ta gồm tiểu đoàn 924 và 308, tiểu đoàn Ký Con, tiểu đoàn 923 cùng du kích quyết tâm đánh địch để bảo vệ an toàn cho căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ, làm phá sản ý đồ của địch nhằm lấy nơi đây làm bàn đạp đối phó với khu vực lân cận Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng Tháp Mười. Trận càn quét kết thúc bằng một kết quả bi thảm cho thực dân Pháp: 300 tên bị diệt, hàng chục lính Âu Phi bị bắt, nhiều cơ giới bị bắn hư, ta thu được 80 khẩu súng trong đó có 5 khẩu PM và một máy truyền tin. Chiến thắng này vang danh cả nước, đến nay còn lưu lại bài vè:
“… Trận Láng Le Tây khóc ngất
Trận Tầm Vu Tây mất ca-nông”
Sau trận càn này do yêu cầu của công cuộc kháng chiến trong căn cứ chỉ còn lại Huyện Ủy Trung Huyện và một số đơn vị vũ trang. Liên tiếp những trận thất bại tướng Pháp De Latour phải thi hành chiến thuật đồn bót và tháp canh để bảo vệ các trục lộ giao thông và vùng kiểm soát của Pháp. Xung quanh khu Rừng Tràm Bà Vụ Pháp xây dựng hàng loạt tháp canh và tổ chức biệt kích công giáo lùng bắt cán bộ do tên Le Roy chỉ huy. Đơn cử ở xã Lương Hòa Pháp đóng tới 7 bót lớn 18 tháp canh.
Từ ngày 20/3 đến ngày 25/3 năm 1949 Pháp huy động Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 (lực lượng Viễn Chinh) đánh vào căn cứ. Bộ binh địch từ cầu Xáng, Tân Tạo, Đức Hòa 40 xe tăng từ Bến Lức đổ xuống. Lúc này phần lớn lực lượng Cách mạng trong căn cứ đã rút về Đức Huệ chỉ còn một số đơn vị của Trung đoàn 308 và một đại đội bảo vệ căn cứ do đ/c Huỳnh Công Thân chỉ huy. Dù huy động lực lượng lớn như thế nhưng giặc Pháp vẫn không làm gì được ta, chúng chỉ cướp phá nhà đồng bào rồi rút lui. Sau trận càn, vào năm 1950 lực lượng ta lại trở về căn cứ vận động đồng bào, gầy dựng phong trào cách mạng và thành lập lại quân dân chính.
Giặc Pháp thỉnh thoảng vẫn càn quét vào căn cứ nhưng lần nào cũng bị tổn thất nặng nề và bị chiến thuật chông mìn của ta. Những nhân chứng còn sống vào thời ấy kể rằng thân nhân gia đình bọn giặc trước và sau trận càn đều ra chợ mua hương hoa cúng vái vì mỗi lần đi càn bọn giặc phải bỏ lại ít nhất là xác một trung đội lính. Số chông mìn này phần lớn sản xuất từ Đức Huệ, phần trái nổi do tại chỗ tự tạo. Phong trào kháng chiến ngày càng mạnh, căn cứ ngày càng được mở rộng, các tua xung quanh bị tiêu diệt dần. Ngày 24/3/1945, Tiểu đoàn 62 của địch trong những cố gắng cuối cùng mở cuộc tấn công vào căn cứ đã bị ta đánh bại. Bọn địch bị diệt hơn một Trung đội, ta thu được 3 súng trung liên. Giặc Pháp ngày càng sa lầy trên chiến trường Đông Dương. Ngày 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn nặng nề làm tan rã ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, chúng đành phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ rút khỏi vĩ tuyến 17. Thi hành hiệp định lực lượng cách mạng trong căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ chôn giấu vũ khí, chuyển quân tập kết chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng chính quyền tay sai thân Mỹ Ngô Đình Diệm đã thi hành chính sách phản dân tộc, không tổng tuyển cử hầu kéo dài tình trạng chia cắt đất nước. Trước tình hình ấy, Đảng rút vào bí mật lấy mặt trận chính trị làm mục tiêu chủ yếu. Lực lượng cách mạng thành lập những đội vũ trang tuyên truyền về đóng trong căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ vận động giác ngộ nhân dân đấu tranh chống chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thời gian 1956-1958 trung đội vũ trang tuyên truyền của đ/c Nguyễn Văn Chiêu đã về hoạt động trong căn cứ.
Trong 9 năm kháng chiến ta đã tiến hành chia ruộng đất cho nhân dân, sau năm 1954 bọn địa chủ dựa vào thế chính quyền Diệm cướp đoạt trắng trợn hàng ngàn hec-ta trên tay nông dân. Ở khu vực Vườn Thơm Bà Vụ địa chủ Lý Thị Hường chị vợ Trung tướng Ngụy Trần Văn Đôn có đến 2000 mẫu đất. Sau năm 1954 bà này ỷ thế tướng Đôn lấy lại ruộng đất, bắt nông dân nộp lại đại tô. Trước tình hình đó hai đ/c Huỳnh Công Thân và Ngô Văn Hoạch tiến hành trấn áp Lý Thị Hường buộc bà ta không được cướp lại những thành quả mà cách mạng đã mang lại cho nhân dân.
Tháng 8/1956 Xứ Ủy Nam Kỳ triệu tập một hội nghị mở rộng thảo luận: “Đề cương cách mạng Miền Nam” thống nhất sách lược “Đập tan chính quyền độc tài -phát xít Ngô Đình Diệm để tự cứu lấy mình”. Liên Tỉnh Ủy Miền Trung Nam Bộ cho lập một cơ quan quân sự thống nhất lãnh đạo các nhóm vũ trang hình thành phía Tây Nam Sài Gòn gọi là khu bộ Tân An Chợ Lớn do Trung tá Lưu Phước Nam làm khu bộ trưởng. Lúc này căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ là nơi đóng quân của Huyện Ủy Bến Lức và một số đơn vị vũ trang. Tháng 10/1957 ta tổ chức 3 đại hội lấy phiên tiểu đoàn: Đ504, Đ 506, Đ 508. Đ 506 gồm 3b hoạt động trong căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền thọc sâu đến Phú Lâm và lộ 4. Ngày 6/1/1960 Tỉnh Ủy Long An họp hội nghị ở Giồng Ông Tưởng quyết định phát động phong trào Đồng Khởi phá tan bộ máy tề điệp ở cơ sở giành chính quyền làm chủ của nhân dân ở xã ấp. Đêm 25/1/1960 b231 thuộc tiểu đoàn 506 từ căn cứ mở đầu Đồng Khởi đánh đồn Đức Lập, bức hàng toàn bộ, thu hết vũ khí của giặc. Sau đó tại Bà vụ ta đánh quân của Quản Sơn và đánh quân dù từ cầu Vàm Sáng diệt 20 tên địch. Phong trào Đồng Khởi ngày càng mạnh mẽ, bộ đội tỉnh đánh địch ở Đức Hòa, Đức Huệ, Vườn Thơm, bộ đội địa phương cùng quân dân khởi nghĩa chiếm các tua, gọi hàng dân vệ, uy hiếp cảnh sát, giải tán hội tề. Jefrey Rocce nhà nghiên cứu Mỹ viết: “Vào đầu năm 1960 Đảng đã trở thành người cai trị trên những khu vực đáng kể của Tỉnh Long An.” Một vùng đất lớn được giải phóng ở Bến Lức, chiến khu Vườn Thơm Bà Vụ được mở rộng.
Năm 1963 vùng giải phóng phía Bắc đến sát lộ 4, riêng huyện Bến Lức gồm 4 xã: Bình Đức, Thạnh Lợi, An Thạnh, Tân Bửu. Thời gian này căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ là hành lang chiến lược, là điểm tập kết quân để bộ đội đánh địch xung quanh. Ngoài ra muốn tấn công vùng Nam lộ 4 bộ đội cũng phải đóng nơi đây chờ đêm xuống mới qua lộ. Đêm 8 rạng ngày 9/1/1965 Tiểu đoàn I từ căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ tấn công diệt đồn Tam Ấn, đồng thời tập kích bọn địch đóng bên ngoài tiêu diệt một Đại đội bộ binh và một Đại đội hỏa lực của địch, trong đó có hai cố vấn Mỹ. Thời gian này tính chất cuộc chiến tranh trên chiến trường Long An đã thay đổi, ta không còn bị động trong các căn cứ để bị tấn công, mà từ các căn cứ ta chủ động hành quân bao vây tiêu diệt các đồn địch và bẻ gãy các cuộc hành quân của địch. Tiểu đoàn 506 đơn vị thường xuyên đóng trong Vườn Thơm Bà Vụ chiến đấu rất hiệu quả. Trung tá Mỹ Euvin Chamberiain thừa nhận: Tiểu đoàn Việt Cộng 506 tự nó chứng tỏ là một đơn vị chiến đấu có hiệu quả mà trong 3 trường hợp khác nhau đã thành công về chiến thuật đánh bại các đơn vị của chính phủ có cấp lớn hơn.
Từ ngày 9 đến ngày 18/4/1967 Lữ Đoàn 3 thuộc Sư 9 Mỹ càn vào căn cứ. Chúng huy động 40, 50 trực thăng, 100 khẩu pháo. Bộ Tư lệnh của chúng đóng ở xã Thanh Hà. Lực lượng cách mạng trong căn cứ gồm tiểu đoàn 6 do ông Nguyễn Văn Vệ làm chính trị viên và lực lượng địa phương bám sát địa hình để đánh địch. Sau 9 ngày càn quét không kết quả, bọn Mỹ phải rút lui bỏ lại xác một trung đội lính. Tháng 10/1967 Long An tiếp nhận Nghị quyết của Trung ương Cục nắm thời cơ chuẩn bị tấn công Sài Gòn. Trung Ương Cục về đóng ở Vườn Thơm Bà Vụ do đ/c Nguyễn Văn Linh làm Bí thư. Đ/c Võ Văn Kiệt Bí thư Khu Ủy Khu 4 Sài Gòn Gia Định cũng về đóng ở căn cứ để lãnh đạo cách mạng. Trung Ương Cục chia Long An cùng với phía Tây và Nam thành phố làm hai phân khu: Phân khu II, Phân khu III.
Phân khu II gồm: Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ của Long An các huyện Bình Tân, Quận 5, Quận 6, quận 10, quận 11 và một phần Phú Nhuận của Sài Gòn do đ/c Võ Trần Chí làm bí thư phân khu ủy, đ/c Hai Sang làm Tư lệnh. Tháng giêng năm 1968 Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 quyết tâm tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Bộ tư lệnh tiền phương chiến dịch tấn công vào Sài Gòn do đ/c Lê Đức Anh làm tư lệnh, Lê Chân làm chính trị viên về đóng ở Vườn Thơm Bà vụ. Lực lượng phân khu II gồm 6 tiểu đoàn là: d267, d269, d6, d16, d12 đặc công và một d pháo binh tập kết ở Vườn Thơm Bà Vụ có nhiệm vụ đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô…cùng với 4 phân khu bạn.
Sau hai đợt tấn công vào Sài Gòn năm 1968 lực lượng cách mạng tuy có bị tổn thất nhưng đã mở ra một giai đoạn mới, một thế chiến lược mới trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc Mỹ. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968 căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ – Láng Le Bầu Cò là hậu cứ để tấn công Sài Gòn. Bộ chỉ huy chiến dịch cũng đóng nơi đây để chỉ huy mặt trận. Mặt khác trong thời gian tấn công vào Sài Gòn căn cứ còn là một trạm quân y tiền phương, thương binh từ các mặt trận được chuyển về đây sơ cứu rồi đưa đi các nơi khác để chữa trị. Trong suốt thời kỳ đánh Mỹ ngành hậu cần và nhân dân Long An tìm mọi cách để đưa đạn dược xuống vùng ven và vào Sài Gòn.
Căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ đóng vai trò là một trạm trung chuyển quan trọng trong đường dây này. Hàng hậu cần từ ba khu cắt thẳng về hướng Đông qua Đức Huệ, vượt Vàm Cỏ Đông sang Đức Hòa rồi tập trung ở căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ. Từ đây đạn được đưa vào những hàng phục vụ hậu cần được chuyển vào Sài Gòn và vùng Nam lộ 4 phục vụ công cuộc kháng chiến của ta.
Sau cuộc tổng công kích năm 1968, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng, phong trào cách mạng tạm lắng, giặc tiến hành “Bình định” bao vây tiêu diệt căn cứ cách mạng. Ở Rừng Tràm Bà Vụ bọn địch sử dụng máy bay thả bom, dùng pháo bắn đẩy lực lượng vũ trang của ta ra xa vùng ven, đánh phá hành lang chiến lược của cách mạng. Lực lượng vũ trang phải rút về phía biên giới và căn cứ Ba Thu trong Rừng Tràm Bà Vụ chỉ còn lực lượng địa phương. Sang năm 1970 ta chấp hành chỉ thị 01, 02 của Trung Ương Cục về tạo thế lực phá kế hoạch kìm kẹp của địch. Phân khu 23 (do phân khu II và phân khu III hợp lại) chủ trương đưa cán bộ chính trị, quân sự về cũng cố Huyện ủy, Huyện đội xây dựng chính quyền cách mạng các cấp. Tháng 11/1970 phân khu 23 đưa tiểu đoàn 1 về căn cứ Vườn Thơm Bà Vụ, đến cuối năm 1971 ta đưa đại bộ phận về bám chiến trường Bắc lộ 4. Cuối 1971 đầu 1972 ta gầy dựng phần lớn cơ sở nông thôn và vùng ven. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ và đợt chồm lên tấn công địch năm 1972 ta mở rộng đánh địch luồng sâu vào vùng yếu, xây dựng nhiều lõm chính trị góp phần quan trọng trong thắng lợi của Hiệp định Pa-ri năm 1973. Mùa khô 1973-1974 ta đã chuyển thế tấn công địch liên tục, chủ động đánh địch, phát huy phương thức vây lấn và tập kích hỏa lực vào các căn cứ địch. Ở Bắc lộ 4 từ Rừng Tràm Bà Vụ ta tiến hành đánh địch làm chủ phần lớn vùng nông thôn từ 18 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ ngày hôm sau. Tháng 10/1974 Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hạ quyết tâm giải phóng Miền Nam trong vòng 2 năm 1974-1975. Tháng 3/1975 Chiến dịch Buôn Ma Thuộc thắng lợi tiếp theo là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Long An có 2 nhiệm vụ chính: phục vụ chiến đấu cho lực lượng cấp trên và tham gia tấn công trực tiếp vào Sài Gòn về hướng Tây Nam. Đầu tháng 3 năm 1975 lực lượng vũ trang Long An kết hợp với Sư đoàn 3 đã tấn công Bắc lộ 4 diệt hàng chục đồn bót và mở rộng vùng ven sông Vàm Cỏ. Chiến khu Vườn Thơm Bà Vụ trở thành điểm tập trung quân lớn của miền và tỉnh Long An để tấn công Tây Nam Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 chế độ Ngụy Sài Gòn cáo chung đánh dấu thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ.
Cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đã hoàn toàn thắng lợi, trong sự nghiệp chung ấy căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ và những người dân nơi đây đã góp phần không nhỏ. Không có những tấm lòng yêu nước thương nòi của nhân dân căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ không thể nào tồn tại như cây gai trong mắt địch suốt 30 năm ròng rã. Bà con đã không nề hy sinh gian khổ, bám trụ với cán bộ căn cứ. Các đ/c lãnh đạo cách mạng đã ở nơi đây trong vòng tay chở che đùm bọc của bà con. Đây là một bằng chứng hùng hồn cho nghĩa tình cá nước của quân và dân ta.
4./ Loại di tích.
Rừng Tràm Bà Vụ là di tích lịch sử ghi dấu những sự kiện trọng đại, những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong công cuộc trường kỳ kháng chiến. Nói chung đây là một địa danh lịch sử đã đi vào truyền thống của dân tộc.
5./ Khảo tả di tích.
Khu vực Rừng Tràm Bà Vụ thuộc 4 xã: Lương Hòa, Tân Bửu, An Thạnh, Tân Hòa được giới hạn bởi sông Vàm Cỏ Đông và lộ 31 ở phía Tây, sông Tân Bửu ở phía Nam, chiến khu Vườn Thơm ở phía Bắc và Láng Le Bàu Cò ở phía Đông. Đây là vùng đất có địa hình trũng thấp, sình lầy, đất đai hoang hóa còn khá rộng, dân cư thưa thớt. Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nơi này vẫn còn hoang vu, tràm và các loại cây hoang dại mọc thành rừng. Đầu thế kỷ 19 trong chương trình khai thác thuộc địa người Pháp thấy nơi đây là một vùng đất trọng yếu ngang bên cạnh Sài Gòn nên đã đào kinh di dân từ phía Nam lộ 4 lên khẩn đất, khai hoang cứ 500m người ta lại đào một con kênh, vì vậy trong khu vực Rừng Tràm Bà Vụ kinh rạch chằng chịt, đan xen nhau: Rạch Nổ, Kinh Gia Miệng, Kinh Giồng Dung, Kinh Xáng…
6./ Gía trị lịch sử của di tích.
Di tích lịch sử Rừng Tràm Bà Vụ là nơi ghi dấu những sự kiện trọng đại, những chiến tích oai hùng trong suốt hai thời kỳ kháng chiến của Đảng bộ và nhân dân Long An nói riêng và cũng như cả nước nói chung. Địa danh Rừng Tràm Bà Vụ đã đi vào lịch sử chống xâm lăng của dân tộc cùng với những chiến công của lực lượng vũ trang ta như: Láng Le-Bàu Cò… vang dội năm xưa. Những cơ quan đầu não và các đ/c lãnh đạo đã từng bám trụ nơi đây để chỉ huy phong trào cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Di tích là một bằng chứng cho sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, với tầm nhìn chiến lược đã xây dựng nên một căn cứ địa cách mạng ngay bên cạnh thành phố Sài Gòn-thủ đô của Ngụy quyền. Đây là một điển hình của việc vận dụng thành công sách lược: “Toàn dân, toàn diện và trường kỳ kháng chiến” của Đảng ta, sự tồn tại ngoan cường của căn cứ Rừng Tràm Bà Vụ trong suốt 30 năm giữa vòng vây ác liệt của quân thù đã chứng minh cho tinh thần quật khởi, lòng yêu nước nồng nàn của quân và dân Long An.
Di tích Rừng Tràm Bà Vụ là niềm tự hào của Đảng và nhân dân ta, nó góp phần khẳng định truyền thống “Trung dũng, kiên cường toàn dân đánh giặc” của mảnh đất Long An. Biết bao xương m&