1. Dàn ý cảm nhận về nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt:
Mở bài:
– Về tác giả, tác phẩm:
Kim Lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.
“Vợ nhặt” phản ánh rất chân thực cuộc sống khổ cực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Cảm nghĩ chung về nhân vật người vợ nhặt: Hình tượng người vợ không tên trong truyện ngắn là nhân chứng hùng hồn cho thời gian khó khăn của nhân dân ta.
Thân bài:
* Tổng quan về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Tiền thân của truyện ngắn Vợ Nhặt là tiểu thuyết Xóm Ngụ cư – được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dở dang và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.
– Tóm tắt :
* Cảm nhận hình ảnh người vợ nhặt
+) “Vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh
– Thị hiện lên cả về ngoại hình lẫn tính cách của một kẻ đói ăn:
+ Lần đầu tiên thị trường xuất hiện là hình ảnh:
Ngồi giữa đám con gái chờ nhặt hạt rơi vãi trước cổng chợ tỉnh.
Thị đẩy xe với hy vọng có ăn nên rất nhiệt tình, không cần ác ý.
+ Lần thứ hai Thị xuất hiện với vẻ ngoài kém hấp dẫn hơn:
Gầy gò, “quần áo rách như tổ đỉa”, “mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng sâu”.
Cái đói đã làm cho cô ấy càng nhếch nhác, càng nghèo càng nhếch nhác, càng đáng thương. Cái đói không chỉ hủy hoại khuôn mặt mà còn hủy hoại cả nhân cách và phẩm giá của chị. Vì đói mà cô trở nên “cáu kỉnh”, “luộm thuộm”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “hờn dỗi” khi giao tiếp, ăn nói. Cái đói khiến cô quên giữ lý trí và lòng tự trọng. Thị cứ đòi đi ăn. Được đút ăn sẵn, cô sẵn sàng “sà xuống ăn liền bốn bát bánh không nói”. Thị đã đặt sự tồn tại, miếng ăn lên trên nhân cách.
+) “Vợ nhặt” có khát vọng sống mãnh liệt
Khi anh Tràng hay bông đùa “đằng ấy muốn về với mình thì lên xe rồi mình về” thì Thị đồng ý, đồng ý không một chút đắn đo hay do dự. Trong khi đó, Trang là ai, tốt xấu ra sao, nguồn gốc ra sao? Chỉ với vài bát bánh là mẹ có thể đi theo Tràng ngay. Thị theo Tràng có phải chỉ vì miếng ăn? Thực ra, hành động của chị Tràng theo Tràng xuất phát từ nhu cầu bấu víu vào sự sống, từ lòng ham sống.
+ Thị bất chấp mọi thứ để kiếm ăn, ăn để tồn tại.
+ Thị chấp nhận đi theo không Tràng. Đó là ý thức bám víu vào cuộc sống. Cận kề cái chết, người phụ nữ không từ bỏ cuộc sống. Ngược lại, cô vẫn vượt lên trên sầu muộn để xây dựng mái ấm gia đình.
=> Lòng lạc quan, yêu đời của Thành là một phẩm chất rất đáng quý. Như Kim Lân đã nói: “Trong hoàn cảnh éo le, dù cận kề cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng vào tương lai”.
+) Đằng sau vẻ lôi thôi, bẩn thỉu, “vợ nhặt” là một người phụ nữ rất chu đáo, đảm đang.
– Sau đêm tân hôn, người phụ nữ đó đã thay đổi hoàn toàn tâm trạng và tính cách.
Thị dậy từ rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa
Nếu thị ngày hôm qua chua ngoa, đanh đá, lưu manh thì hôm nay thị lại dịu dàng như thế. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận trọn vẹn sự thay đổi diệu kỳ đó: “Tràng nom Thị của hôm nay đã khác lắm, thấy rõ là một người phụ nữ dịu dàng, đứng đắn không còn vẻ e lệ như những lần Tràng gặp ở tỉnh ngoài”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thực của Tràng trước sự thay đổi tích cực của vợ.
-> Phải chăng tình yêu đích thực có phép thần thông có sức mạnh cảm hóa được nàng.
– Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, dù bữa cơm không có gì, chỉ có cháo cám chát đắng, nhưng thị “vẫn điềm nhiên và vào miệng”, điều này thể hiện sự chấp nhận.
=> Thông qua nhân vật “vợ nhặt” – một sáng tạo của Kim Lân, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao cả, cao đẹp: Con người Việt Nam dù sống trong nghèo khổ đến đâu cũng luôn hướng tới tương lai với niềm tin vào cuộc sống.
Kết bài:
Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Mẫu bài cảm nhận về nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt:
Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm Kim Lân tái hiện thành công bức tranh ảm đạm, khủng khiếp của nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền đen tối đau thương ấy, nhà văn đã gửi gắm vào đó hình ảnh nhân vật người vợ: nghèo khổ, bất hạnh nhưng có khát vọng sống mãnh liệt. đàn ông nào về làm vợ giữa buổi đói.
Xét về hoàn cảnh, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số tròn trĩnh: không tên, không quê quán, không gia đình, không nghề nghiệp. Từ đầu đến cuối, cô chỉ được gọi là “”Thị” – một cách chung chung của gọi chị và tất cả những người phụ nữ có hoàn cảnh và số phận đáng thương như chị. Không chỉ vậy, chân dung người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu cũng không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh một người phụ nữ gầy gò, ngực lép, mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.
Trước khi về làm vợ Tràng, Thị là một người phụ nữ có táo bạo và liều lĩnh. Buổi đầu gặp gỡ, Thị đã chủ động làm quen, đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười” với Tràng. Lần thứ hai gặp mặt, nàng “vội chạy”, “thừa nhận mà nói” và vẫn “ngượng ngùng” đứng trước Tràng. Hơn nữa, Thị còn chủ động xin ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh cuốn, Thị cắm cúi ăn liền một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong, bà còn quệt đũa ngang miệng khen ngon. Trong cơn đói khát tột cùng, bà gần như đánh mất nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, nhìn nhà cửa bừa bộn của Tràng, chị nén tiếng thở dài, đành thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng khá hơn của Thị. Tràng không chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo liệu có cưu mang được cho mình không, nếu không cuộc sống của Tràng sẽ thêm khốn khó. Hành động khép nép, tay mân mê vạt áo khi đứng trước bà cụ Tứ thật đáng thương. Sâu thẳm trong con người này vẫn luôn khao khát một mái ấm thực sự nên đã quyết định gắn bó với cô, trở thành một phần của gia đình, bất chấp ngày mai có ra sao.
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng là do đói. Cái đói đôi khi có thể bóp méo tính cách của một người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thực sự đồng cảm và đồng cảm với cảnh nghèo khổ của người lao động. Khi về làm vợ Tràng, nàng trở về đúng với con người thật của mình là một người phụ nữ hiền lành, e ấp, đoan trang và có trách nhiệm. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đáng thương của cô khi ở bên Tràng lúc chiều tà. Thị bẽn lẽn đi sau Tràng ba bốn bước, chiếc mũ tả tơi che bên hông, “rợn người, thẹn thùng, ngượng ngùng, “chân nọ bước vào chân kia”….Lúc này, trông thật tội nghiệp, cảnh vật nơi thị mới hiện về. cô dâu theo chồng về nhà chồng: cảnh đưa dâu không hoa, không pháo hoa cưới mà chỉ có những khuôn mặt hốc hác, hốc hác của những người hàng xóm và tiếng quạ kêu, tiếng khóc thê lương của người chết. Hành trình của cô dâu về nhà chồng hạnh phúc là cả cuộc đời tăm tối và nỗi sợ hãi khôn tả của cô.
Tuy nhiên, một cái gì đó mới đã thay đổi người phụ nữ. Sau một ngày làm vợ, chị dậy từ rất sớm, quét dọn nhà cửa. Đó là hình ảnh một người phụ nữ hiền lành, đứng đắn, một người vợ biết lo toan cho cuộc sống gia đình chứ không còn vẻ lẳng lơ, luộm thuộm nữa.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói khổ, bà Tứ dành hết tình cảm cho cô con dâu mới. Chị tỏ ra là người phụ nữ am hiểu thời sự khi kể cho mẹ chồng nghe chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính cô đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm hy vọng về một sự đổi đời trong tương lai.
Qua hình ảnh người vợ nhặt, nhà văn lên án mạnh mẽ tội ác man rợ của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ sự cảm thông, xót thương trước hoàn cảnh khốn khó của những người dân lao động nghèo; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, khát vọng hạnh phúc bình dị của người lao động nghèo khổ. Dù trong công việc vất vả, họ vẫn yêu thương, quan tâm đến nhau, cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
Tóm lại, người đàn bà không họ, không tên, không họ hàng thân thích này đã thực sự đổi đời bằng tấm lòng giàu tình yêu thương của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng trưng bày tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự đầm ấm của cuộc sống gia đình. Phải chăng cô đã mang đến một luồng gió mới cho những mảnh đời đen tối của những người nghèo bên bờ vực của
3. Mẫu bài phân tích nhân vật Thị qua truyện ngắn Vợ nhặt:
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Chuyện kể về Tràng ở cùng xóm, làm nghề đánh xe bò thuê. Giữa lúc đói khủng khiếp, còn khó có miếng ăn cho mình, bỗng nhặt được vợ. Kim Lân đã tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời sử dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến vợ chồng Tràng, nhân vật nào cũng sống động, chân thực.
Ngay tên truyện là “Vợ nhặt” cũng gợi nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng trong từng hoàn cảnh khác nhau. Cô đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong hoàn cảnh bấp bênh giữa sự sống và cái chết. Vì vậy, nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trước khi về làm vợ Tràng, thị là một người phụ nữ tài giỏi, táo bạo và liều lĩnh. Buổi đầu gặp mặt, Thị đã chủ động làm quen, đẩy xe bò cho Tràng và “mỉm cười” với Tràng. Lần thứ hai gặp mặt, cô “bỏ chạy”, “thừa nhận” và vẫn “ngại ngùng” đứng trước Tràng. Hơn nữa, Thị còn chủ động đi xin ăn. Khi được Tràng rủ đi ăn bánh cuốn, Thị cắm mặt ăn liền một mạch bốn bát bánh cuốn. Ăn xong, nàng còn quệt đũa ngang miệng, khen ngon.Trong cơn đói khát tột cùng, nàng gần như đánh mất nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, nhìn căn nhà bừa bộn của Tràng, chị nén tiếng thở dài đành phải thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng khá hơn của Thị. Tràng không chỉ nghèo mà còn có mẹ già, Tràng cũng phải tự lo liệu, nếu không cuộc sống của Tràng sẽ khó khăn hơn. Hành động khép nép, tay vuốt vạt áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ thật đáng thương. Sâu thẳm bên trong con người này luôn khao khát một mái ấm thực sự nên anh quyết định gắn bó với cô, trở thành một phần của gia đình, bất chấp ngày mai có ra sao.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ đó thay đổi hoàn toàn tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự thay đổi đó: nếu hôm qua Thị chua ngoa, dữ dằn, ngang tàng thì hôm nay Thị dịu dàng biết bao. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận trọn vẹn sự thay đổi kỳ diệu đó: “Tràng nom Thị hôm nay đã khác lắm, ra dáng một người phụ nữ dịu dàng, đoan trang không còn e thẹn như những lần Tràng gặp ở Việt Nam ở tỉnh ngoài”.
Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, dù bữa cơm chỉ là “cháo loãng, mỗi người hết hai bát cơm”, phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn thấy vui. Thị mang đến cho mẹ con Tràng cuộc sống và những thông tin mới về thời cuộc. Nghe tiếng trống thuế, nàng nói với mẹ chồng: “Ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không nộp thuế nữa, lại còn phá kho thóc của Nhật chia cho dân đói nữa”. Sự hiểu biết này của chị dường như đã giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mà mình sẽ chọn, “trong tâm trí Tràng vẫn thấy đoàn người đói khổ đi trên đê Sộp, trước mặt là lá cờ đỏ to lớn”. Qua đó ta thấy nhân vật vợ Tràng, “cô dâu mới” cũng là một sứ giả của cách mạng.
Nhân vật vợ nhặt được Kim Lân đặt vào một tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng và cách ứng xử. Các nhân vật được tập trung miêu tả qua cử chỉ, hành động, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của người vợ Nhặt.
Bằng ngòi bút tin cậy và trân trọng, Kim Lân đã dựng nên một chân dung văn chương bất hủ. Người vợ nhặt là nạn nhân điển hình nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm lu mờ tư cách và lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng sâu thẳm bên trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, nuôi dưỡng khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là một người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.