Nói đến nhà thơ Tú Xương, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Thương vợ”. Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được xem là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của Tú Xương đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ, để ông được học hành, thi cử như vậy. Quan trọng hơn qua hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, người ta thấy hiện lên một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất tốt đẹp điển hình.
Bà Tú có tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân từ gia đình dòng dõi nho gia. Bà nhẫn nại, cam chịu phận làm người vợ thảo hiền, tảo tần sớm hôm nuôi chồng, nuôi con, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương – Một trí thức không gặp thời, long đong, lận đận trên con đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong các tác phẩm thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về đề tài người vợ thường mang nhiều âm điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, có khi chỉ là lời bông đùa hóm hỉnh, hoặc cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả các tác phẩm vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành từ phía một người chồng trước sự hi sinh của một người vợ.
Khi nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến một không gian gia đình, mà ở đó người vợ có vai trò trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của người chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào cái thời buổi Tây, Tàu lẫn lộn, nhốn nháo, không còn đâu cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ” như ngày xưa, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời, cũng phải dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua để mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu của gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian của công việc. “Quanh năm” không chỉ là độ dài có thời lượng mà còn gợi ra cho chúng ta một cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó cho thấy cuộc mưu sinh vất vả này không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực – là phần đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh và chông chênh.
Bà Tú phải hàng ngày bươn chải với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ “nuôi đủ”, nó thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm ý sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một trong những gánh nặng của vợ. Câu ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Nhà thơ đã vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo từ đó. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả đã thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ hơn số kiếp lận đận của bà Tú. Nói về cấu trúc cú pháp của câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm, nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh của bà thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hàng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương, chịu khó, mà hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người với bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của đời mình.
Hóa thân vào nhân vật người vợ, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước hoàn cảnh gia đình. Khi đọc bài thơ hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Những câu thơ như lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng được nhấn mạnh và nổi bật hơn.
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần một phần nào, thể hiện ở hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa của nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Thói đời” ở đây được nhà thơ nói đến phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi những người phụ nữ như bà Tú phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi lòng dằn vặt, thái độ chân thành, tự trách mình của nhà thơ, đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa trong xã hội và ngay cả trong chính gia đình của mình.
Có thể nói hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, được Tú Xương khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, sụ cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.