Suốt 50 năm qua, chưa một giây phút nào nhà thơ Yến Thanh, tên thật là Nguyễn Thanh Bính, quên được giây phút 10 nữ thanh niên xung phong hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc.
Xé ruột gan…
Thắp nén nhang tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ, cho vong linh 10 nữ trinh huyền thoại, cùng đồng đội ngồi dưới rặng cây tỏa bóng rợp trời, nhà thơ Yến Thanh đã nhiều lần bật khóc. Mỗi phút, mỗi giây trong cái ngày đau đớn đấy vẫn hiện rõ mồn một trong hồi ức của ông.
Chiều hôm ấy, 24/7/1968, đường qua Đồng Lộc tắc xe, 40 xe bồn loại 4,8m3 chở xăng vào chiến trường đang nằm chờ đường ở bãi giấu xe. Lệnh đồng chí Trần Quang Đạt – Phó Chủ tịch tỉnh – Trưởng ban giải tỏa Đồng Lộc các đơn vị làm thêm ban ngày để kịp thông xe. Tiểu đội 4 của Võ Thị Tần gồm 16 người, nhưng 6 người được điều chuyển làm việc khác, còn lại 10 người có mặt tại đường 15A cạnh chân núi Trọ Voi.
“Tần và 9 chị em vừa đào xong hai hầm chữ T giao nhau, cách mép đường phía Tây khoảng 15m. Cúc nhận đào chiếc hầm tròn cá nhân để dành riêng cho “thủ trưởng” Tần chỉ huy. Hai đợt máy bay Mỹ quần đảo dội bom xuống hiện trường rồi bỏ đi, cả Tiểu đội an toàn, Tần cho san lấp hố bom xong đang giải lao. Đợt thứ ba có một tốp ba chiếc F105, F4H lao đến, Tần cho chị em ẩn nấp, lần này chúng không dội bom mà quần đảo mấy vòng rồi quay đầu ra biển Đông. Bỗng nhiên một trong ba chiếc lù lù quay lại. Tần hô chị em xuống hầm cấp tốc, Tần vào sau cùng. Tất cả nháo nhào lao vào hai chiếc hào dài vừa đào xong chưa có nắp đậy. Và một quả bom tấn từ máy bay lao xuống nổ trùm lên cả Tiểu đội, lúc ấy là 16 giờ ngày 24/7/1968” – nhà thơ Yến Thanh đau lòng nhớ lại.
Từ đài quan sát, C trưởng Nguyễn Thế Linh chạy xuống Tiểu đội 5, Tiểu đội A8 của Trần Triện và các anh lái máy ủi gần đó đều chạy lại. Khi khói bom tản dần ra chẳng thấy người nào A4 xuất hiện, vài cái cuốc xẻng và mũ nón, giày dép bay lên miệng hố bom. Nguyễn Thế Linh ra lệnh cho đào tìm.
Ông kể tiếp: Sau hai tiếng đồng hồ vừa đào vừa khóc, lúc mặt trời khuất trên eo núi Trọ Voi, hoàng hôn bắt đầu buông xuống thì Trần Triện đào phải cán chiếc cáng và túi thuốc cấp cứu. Gỡ lên, đất vội tụt xuống để lộ mái tóc đen hiện ra. Bới nhẹ đất bồng lên được Võ Thị Tần, thân thể đang mềm, cơ thể còn ấm nhưng trái tim đã ngừng đập, mặt tím tái. Không ai bảo ai, tất cả đều ngã mũ nón: Thế là hết! Hàng trăm khối đất đá tung lên, lấp xuống, Tần nấp sau cùng không còn thì các người nằm trong làm sao sống nổi. Lần lượt bới lên 6 người ẩn nấp hầm ngoài cùng là Nguyễn Thị Xuân (Vĩnh Lộc), rồi đến Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng và cuối cùng là Trần Thị Hường. Tất cả đã hi sinh, cơ thể còn nguyên vẹn, ấm nóng nhưng tim đã ngừng đập.
Đào tiếp hầm thứ hai vuông góc với hầm lúc nãy lại tìm thấy Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh cũng đã tắt thở. Cả 9 người được đặt lên 9 cáng xếp một hàng ngang như khi còn sống Tiểu đội tập hợp.
“Cúc ơi! em ở đâu? Đất nâu lạnh lắm”
Riêng Hồ Thị Cúc – Tiểu đội phó không tìm thấy. Theo nhà thơ Yến Thanh, vào thời điểm đó có người đặt ra hy vọng Cúc còn chạy thoát lên núi đâu đó, nhưng hi vọng nhỏ nhoi, phép màu ấy đã không xảy ra.
Nữ anh hùng Hồ Thị Cúc
Đêm 24/7, theo lệnh đồng chí Trần Quang Đạt, mười hai cái hòm cấp táng được chở về, đơn vị cho khâm liệm và mai táng cả 9 cô sau eo núi Bãi Dịa. Vậy là 9 cô đã mai táng nhưng đợi tìm được thi thể Hồ Thị Cúc mới làm lễ truy điệu.
Hết buổi sáng ngày 25, Ty Giao thông vận tải điều máy ủi ĐT 54 ra đào tìm Hồ Thị Cúc. Chi bộ C552 do đồng chí Nguyễn Hải Đường người xã Xuân Song (Nghi Xuân) làm bí thư họp đột xuất, ra nghị quyết cho đơn vị tiếp tục đào bằng tay để tìm đảng viên Hồ Thị Cúc và không cho phép đào bằng máy sợ xâm hại thi thể người đồng chí thân yêu của mình. Máy ủi AHLLVT Uông Xuân Lý vận hành ra hiện trường rồi phải đánh quay về.
Chiều 25/7, tức ngày thứ hai đào tìm Hồ Thị Cúc, Yến Thanh vào nhà C trưởng Nguyễn Thế Linh, nhìn thấy cái hòm cấp táng còn lại đã được chuyển ra đầu hồi vườn tro nhà ông Biểu (bố Nguyễn Thế Linh).
“Đau xót, nghĩ về số phận hẩm hiu Hồ Thị Cúc. Sống đã khổ, chết rồi vẫn khổ, tôi nấc lên rồi ra ngồi bên hòm Cúc viết bài thơ tạm lấy tên là “Hồn trinh nữ ở đâu”. Viết sau hai tiếng thì xong, chần chừ đề bài xa lạ nên tôi sửa thành “Cúc ơi!” rồi giấu vào túi áo không dám nói với ai sợ bị trách là người vô tình. Sáng hôm sau, sáng 26/7/1968, tôi và đồng chí Bí thư ra ngay hố bom nơi đang tìm Cúc. Cả hai đứng nghiêm trang thắp hương trên chiếc bàn nhỏ có bát cơm úp và lọ hương là một đoạn thân cây chuối đang cháy dở. Tôi cầm giấy đọc rất nhỏ đủ mình nghe cả bài thơ “Cúc ơi” rồi đốt đi, anh Hải Đường, Bí thư đứng bên cạnh tôi chắc cũng nghe được”- nhà thơ Yến Thanh nhớ lại.
Xong đó, cả hai chúng tôi quay về đơn vị lúc đó khoảng 8 giờ hơn. Đến gần 10 giờ thì được tin Tiểu đội 8 Trần Triện đã tìm được thi thể Hồ Thị Cúc. Theo mô tả của nhà thơ Yến Thanh, lúc được tìm thấy, nữ tiểu đội phó Hồ Thị Cúc ngồi trong chiếc hầm tròn chiều hôm trước do tay Cúc đào, đầu đội nón bẹp dí, vai còn vác cái cuốc. Hai tay Cúc bầm dập, máu đọng lại đã khô. Có lẽ, sau khi bom vùi lấp Cúc còn sống đã cố gắng bươi quào đất để nhoi lên nhưng trước khối đất đá đồ sộ Cúc đành bất lực hy sinh.
Sau đó nhà thơ Yến Thanh gửi bài thơ “Cúc ơi” cho tiết mục “Tiếng thơ” của Đài tiếng nói Việt Nam. Vào một đêm tháng 8/1968, Đài tiếng nói Việt Nam vang lên bài thơ “Cúc ơi” qua giọng đọc của nghệ sĩ Văn Thành.
Một tác giả đã viết: “Bài thơ của Yến Thanh không có câu chữ cụ thể nào nói về tội ác giặc Mỹ xâm lược trong chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 24 tháng 7 năm 1968 đã giết chết 10 cô gái thanh niên xung phong đang ở độ tuổi tươi đẹp nhất của một đời người nhưng có sức thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc Mỹ trong trái tim người đọc qua việc tác giả dựng lại chân dung người nữ thanh niên xung phong Hồ Thị Cúc và nỗi xót thương của đồng đội”.
Văn Dũng (lược ghi)