Đón tiếp tôi tại Văn chỉ Bình Dân (xã Tân Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), cả ông Mai Sinh Đông, phó trưởng thôn Bình Dân và bà Nguyễn Thị Huệ, người trông nom Văn chỉ Bình Dân, đều rất hồ hởi. Bà Huệ cho biết: “Hôm nay Văn chỉ làm giỗ cụ Tán Thuật”. Nghe hơi là lạ, tôi bèn nói; “Vậy Văn chỉ làng ta có liên quan gì đến Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy năm nào?”.
Ông Mai Sinh Đông cho hay: “Chính tại Văn chỉ này, một ngày đầu tháng 4 năm 1883 đã diễn ra Lễ tế cờ khởi nghĩa của ông Đinh Gia Quế. Và cũng chính Văn chỉ này trở thành đại bản doanh của Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy”. Nói rồi ông Đông chỉ tay về tấm bằng công nhận di tích lịch sử được treo trang trọng ngay bên ban thờ “Văn chỉ Bình Dân được công nhận Di tích Lịch sử – Văn hóa từ năm 1962. Sớm nhất tỉnh Hưng Yên đấy bác ạ”.
Theo ghi chép thì Văn chỉ Bình Dân được xây dựng đã khá lâu, nơi đây thờ cúng các bậc tiền hiền của huyện Khoái Châu nói chung và của làng Bình Dân nói riêng. Sách cũng cho biết: Thời khoa cử, toàn phủ Khoái Châu có 30 vị đỗ Tiến sĩ, riêng làng Bình Dân có 9 vị. Điều đó cho thấy nơi đây là “vùng đất học” xưa có tiếng. Văn chỉ hiện nay đã qua mấy bận trùng tu, lần trùng tu lớn nhất là khi quân Pháp tấn công vào căn cứ của Nghĩa quân Bãi Sậy, chúng đã cho phá hủy Văn chỉ. Được biết sắp tới đây tỉnh Hưng Yên sẽ đầu tư kinh phí khá lớn để xây dựng lại Văn chỉ Bình Dân cho xứng với ý nghĩa lịch sử và văn hóa của di tích này.
Người khởi xướng và là lãnh tụ đầu tiên
Vào ngày 27-3-1883, quân Pháp do viên thiếu úy Trentimian đưa một toán bộ binh đi trên chiếc tàu nhẹ tới đánh thành Hưng Yên. Tuần phủ Nguyễn Đức Đạt, Án sát Tôn Thất Phiên không chống cự nổi, bỏ thành chạy. Pháp chiếm thành Hưng Yên không mất một viên đạn. Vì quá bất bình và phẫn nộ nên ông Đinh Gia Quế, một viên Chánh tuần, đã tiến hành chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp. Và ông Đinh Gia Quế đã chọn Văn chỉ Bình Dân làm địa điểm khởi binh.
“Vậy ông Đinh Gia Quế chính là người khởi xướng và là lãnh tụ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chứ không phải là cụ Tán Thuật?” – tôi hỏi. Ông Mai Sinh Đông và bà Nguyễn Thị Huệ đều gật đầu. Tôi lại hỏi tiếp, “Vậy ông Đinh Gia Quế là người thế nào? Và vì sao lại chọn Văn chỉ Bình Dân để làm nơi dấy binh kháng Pháp?”. Những “trang sử” được lật lại, thì ra ông Đinh Gia Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Ất Dậu (tức 10 tháng 12 năm 1825), vốn quê quán tại làng Nghiêm Xá, phủ Thường Tín, (nay thuộc xã Nghiêm Xuyên, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội). Thời trẻ, Đinh Gia Quế theo Nho học, qua được khảo hạch, đỗ Khóa sinh. Tuy nhiên sau đó ông chuyển đến làng Thọ Bình, tổng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) làm nghề dạy học và đã coi nơi này là quê hương. Do có uy tín trong vùng, ông được triều đình ban chức Chánh tổng rồi thăng lên Chánh tuần huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu.
Và vào ngày 6 tháng 4 năm 1883, sau đúng 10 ngày thành Hưng Yên thất thủ, ông Đinh Gia Quế phất cờ khởi nghĩa với sự trợ giúp của danh sĩ Nguyễn Đình Mai, một người có uy tín ở thôn Bình Dân. Việc ông Đinh Gia Quế chọn Văn chỉ Bình Dân là nơi khởi binh có cái lý đúng. Trước tiên, vị trí này thuộc Tổng Bình Dân và cũng ngay cạnh thôn Thọ Bình, nơi ông Quế coi là quê hương. Thứ hai là chọn Văn chỉ làm địa điểm dấy binh cho thấy “Cuộc khởi nghĩa này là chính nghĩa và lấy sự trọng học hành làm phương châm. Thứ ba là chỉ có làm “lễ tế cờ” ở Văn chỉ Bình Dân thì mới tạo được tiếng vang và tạo “sức hút” tại chỗ, cuộc khởi binh nào mà không biết dựa vào dân, dựa vào vùng quê tiếng tăm.
Nghe tin ông Đinh Gia Quế phất cao cờ nghĩa, nhân dân nô nức theo. Trai tráng ở phủ Khoái Châu cũng như ở các huyện lân cận trong tỉnh Hưng Yên như Mỹ Hào, Văn Giang, Yên Mỹ kéo tới Văn chỉ Bình Dân tụ nghĩa. Nghe nói sau đó ông Đinh Gia Quế còn tự xưng là “Đổng quân vụ” cho nó có vẻ “chức tước” nên người dân còn gọi ông là ông Đổng Quế.
Đến mùa xuân năm 1885 do bệnh trọng nên ông Đinh Gia Quế mất. Từ đây cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật làm lãnh tụ.
Người lãnh tụ thứ hai
Tiếp tôi tại Nhà thờ họ Nguyễn làng Xuân Đào (xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên), ông Nguyễn Văn Tác, trưởng tộc họ Nguyễn làng Xuân Đào và các ông Nguyễn Tất Xý, Nguyễn Tất Nghiệm cho biết: “Họ Nguyễn làng Xuân Đào lập nghiệp ở đây cũng dăm thế kỷ. Đó là những người con cháu của Nguyễn Trãi sau “biến cố Lệ chi viên” lẩn về đây trú tránh và định cư. Họ Nguyễn làng Xuân Đào có 4 chi (Giáp, Ất, Bính, Đinh). Ông Tác cho biết, “Chi của cụ Nguyễn Thiện Thuật là chi thứ tư. Cụ Nguyễn Thiện Thuật là Hậu duệ đời thứ 13 của Nguyễn Trãi, vị Anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hóa thế giới. Tôi giật mình. Thì ra cụ Nguyễn Thiện Thuật thuộc dòng dõi hào khí. Thảo nào bức hoành phi treo trong Nhà thờ họ Nguyễn Xuân Đào mang dòng chữ “Dữ quốc đồng ưu”, nghĩa là “Cùng lo với nước”.
Nguyễn Thiện Thuật có tên tự là Mạnh Hiếu, cái tên đã cho thấy khí chất của một con người vì dân, vì nước. Cụ sinh năm 1844 và là con cả của Nhà nho Nguyễn Tuy. Năm 1876, Nguyễn Thiện Thuật dự kỳ thi Nho học nhưng chỉ đỗ Cử nhân, được triều đình nhà Nguyễn cử đi làm quan ở một số nơi.
Khi người Pháp đem quân vào xâm chiếm nước ta và đưa quân ra Bắc lần thứ 2 (1882 – 1883) và lần lượt chiếm đóng các tỉnh, khi ấy cụ Nguyễn Thiện Thuật đang làm Chánh xứ sơn phòng Hưng Hóa kiêm Tán tương quân vụ Sơn Tây đã kháng lệnh triều đình, nuôi ý chí đánh Pháp. Cụ Thuật sang Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay, nơi cụ đã có thời gian làm quan ở đó, để chiêu mộ nghĩa binh. Hay tin ở Khoái Châu có ông Đinh Gia Quế phất cờ khởi nghĩa chống Pháp nên Nguyễn Thiện Thuật đã tìm cách liên kết. Và cho dù Vua Tự Đức đã ra lệnh bãi binh nhưng Nguyễn Thiện Thuật lại lần nữa kháng chỉ. Tháng 7 năm 1885, Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, ông Nguyễn Thiện Thuật mừng lắm nên quyết định tìm đến hội nghĩa với Nghĩa quân Bãi Sậy. Tại đây ông đã thể hiện xứng đáng vai trò thủ lĩnh của mình và khi ông Đinh Gia Quế mất thì ông được suy tôn làm lãnh tụ của Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật đã hướng cuộc phản kháng có tính tự phát thành một phong trào kháng chiến có tổ chức. Do cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy và bản thân vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa tích cực hưởng ứng phong trào Cần Vương nhất ở Bắc kỳ, nên Vua Hàm Nghi phong cho ông Nguyễn Thiện Thuật chức Bắc kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, nhằm làm hạt nhân tập hợp quan lại tiến bộ và dân chúng ở Bắc kỳ để kháng Pháp.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy nhanh chóng lan rộng ra khắp tỉnh Hưng Yên và các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, liên kết được với một số lãnh tụ Cần Vương khác như Tạ Hiện ở Thái Bình, Nam Định tạo thành cả một phong trào sâu rộng ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ trong suốt những năm 1885-1889. Chính vì sức lan tỏa của cuộc khởi nghĩa và thanh thế của nghĩa quân Bãi Sậy với vai trò lãnh tụ của Nguyễn Thiện Thuật nên Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy gắn liền với tên tuổi Nguyễn Thiện Thuật.
Năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật trao quyền chỉ huy Nghĩa quân Bãi Sậy cho em trai sau mình là Nguyễn Thiện Kế và các người em là Nguyễn Thiện Hiển và Nguyễn Thiện Dương cùng các lãnh binh khác. Nguyễn Thiện Thuật bí mật sang Trung Quốc tính kế lâu dài nhưng việc không thành. Ông mất vì bệnh ngày 25 tháng 5 năm 1926, tức ngày 14 tháng 4 năm Bính Dần. Năm 2005, mộ của ông được di dời về Việt Nam, cải táng tại quê hương Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào. Khu mộ và đền thờ Nguyễn Thiện Thuật được công nhận là di tích.
Cũng phải nói thêm rằng: Sau khi Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Phong trào Cần Vương bắt đầu suy yếu, người Pháp đẩy mạnh việc đàn áp. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy cũng “kiệt sức” dần. Ông Nguyễn Tất Nghiệm cho hay, “Cụ Nguyễn Thiện Dương bị Pháp phục kích, bắn trọng thương, cụ mất do bị mất nhiều máu. Còn cụ Nguyễn Thiện Kế cũng bị Pháp bắt. Chúng đày cụ ra Côn Đảo. Trước đó cụ Nguyễn Thiện Hiển cũng bị tử trận và ngay người con trai lớn của cụ Thuật là Nguyễn Thiện Tuyển cũng bị Pháp bắn và xử chém đầu”. Với những mất mát và thương vong đáng kể.
Đến năm 1892, Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lụi tàn, kết thúc 9 năm nổi dậy kháng Pháp của những người nông dân Hưng Yên nói riêng và đồng bằng Bắc bộ nói chung.