Có lẽ mỗi người dân Việt Nam đều biết đến Hai Bà Trưng – hai nữ anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Tinh thần quật khởi của Hai Bà Trưng đã góp phần hun đúc, rèn giũa ý chí, sức sống mãnh liệt của một dân tộc anh hùng. Trong bài viết dưới đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm nào?
Tiểu sử Hai Bà Trưng
Hai Bà Trưng là tên gọi thường được nhân dân Việt Nam sử dụng khi nói về hai nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai Bà Trưng là hai chị em sinh đôi, con gái quan Lạc tướng Mê Linh, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện, người làng Nam Nguyễn – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội.
Không may chồng mất sớm, bà Man Thiện một mình nuôi dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Bà dạy cho con nghề trồng dâu, nuôi tằm. Không chỉ vậy, bà còn nuôi dưỡng trong hai người con lòng yêu nước, chú trọng rèn luyện sức khỏe và võ nghệ.
Nhờ vậy, Trưng Trắc trở thành một phụ nữ đảm đang, dũng cảm, mưu trí. Chồng bà là Thi Sách con trai lạc tướng huyện Chu Diên. Cuộc hôn nhân này đã làm cho thế lực của gia đình Trưng Trắc ngày càng lớn mạnh. Lo sợ trước sự ảnh hưởng của gia đình Trưng Trắc, Tô Định – viên thái thú của nhà Đông Hán, đã tìm cách giết chết Thi Sách.
Trước các chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán với toàn bộ người Âu Lạc và hành vi bạo ngược của Tô Định càng làm cho Trưng Trắc quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, áp bức của nhà Đông Hán, khôi phục độc lập. Trước dàn ba quân bà khẳng định hùng hồn:
“ Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”.
Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào?
Tháng 2 năm 40 sau Công Nguyên (tức năm Canh Tý), Trưng Trắc cùng với Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát (thuộc địa phận huyện Phúc Thọ – Hà Nội). Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, những người yêu nước khắp nơi tụ nghĩa ở Mê Linh.
Trong nội dung tiếp theo của bài viết Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào? Sẽ cung cấp cho bạn đọc các thông tin về diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được chia thành hai lần.
Lần 1: Năm 40, sau Công nguyên
Nghĩa quân của Hai Bà Trưng đã từ Mê Linh tiến về xuôi, tiến đánh Luy Lâu ( nay là Thuận Thành – Bắc Ninh) – thủ phủ của chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ. Do vô cùng căm giận chế độ áp bức, bóc lột tàn tệ của nhà Đông Hán, nên khi chính quyền nhà Đông Hán bị đánh đổ ở Luy Lâu thì nhân dân các quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), quận Nhật Nam (từ Hoành Sơn đến Quảng Nam) đã cùng tham gia đấu tranh.
Được nhân dân khắp nơi ủng hộ, nghĩa quân của Hai Bà Trưng đi đến đâu, chính quyền và quân đội nhà Đông Hán tan vỡ đến đấy. Trước sức mạnh của nghĩa quân, bọn Tô Định, Thứ sử, Thái thú của nhà Đông Hán hoảng sợ và theo nhau bỏ chạy về Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào nổi dậy rộng lớn của quần chúng khắp nơi. Chỉ trong thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã giải phóng được 65 huyện thành. Cuộc khởi nghĩa thành công và giành độc lập trên phạm vi cả nước. Sau đó, Trưng Trắc được suy tôn làm vua, thường được gọi là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Lần 2: Năm 42, sau Công nguyên
Năm 42, nhà Hán tăng cường chi viện, Mã Viện là người chỉ đạo cánh quân xâm lược này gồm có: 2 vạn quân tinh nhuệ, 2 nghìn xe thuyền và nhiều dân phu. Chúng tấn công quân ta ở Hợp Phố, nhân dân ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả nhưng vẫn gặp thất bại trước quân Hán.
Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện đã chia quân thành 2 đạo thủy bộ tiến Lục Đầu và gặp nhau tại Lẵng Bạc:
– Đạo quân bộ: đi men theo đường biển, lẻn qua Quỷ Môn Quan để xuống Lục Đầu.
– Đạo quân thủy: đi từ Hải Môn vượt biển tiến thẳng vào sông Bạch Đằng, sau đó từ Thái Bình đi lên Lục Đầu.
Sau khi nhận được tin tức, Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh về nghênh chiến với địch tại Lẵng Bạc. Quân ta giữ vững được Cổ Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp tục đuổi theo buộc quân ta phải lùi về Cẩm Khê (nay thuộc Ba Vì – Hà Nội).
Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh ở Cẩm Khê. Cuộc kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới bị dập tắt.
Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Qua tìm hiểu Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào, ta thấy cuộc khởi nghĩa lần 1 vào năm 40 đã thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, khi nhà Hán tăng cường chi viện vào năm 42, cuộc khởi nghĩa đã thất bại trong năm 43. Thắng lợi mà nghĩa quân Hai Bà Trưng giành được là nhờ vào sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, sự chỉ huy tài tình và sự chiến đấu anh dũng của nghĩa quân.
Mặc dù thất bại vào năm 43 nhưng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có ý nghĩa vô cùng to lớn:
– Sự thắng lợi trong năm 40 của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã khôi phục được nền độc lập dân tộc của dân tộc, mở ra một trang mới trong lịch sử.
– Trong và sau thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã cho thấy được tinh thần yêu nước, ý chí quyết đấu, quyết thắng của nhân dân trong việc giành lại độc lập chủ quyền của đất nước.
– Đặc biệt, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trung đã khẳng định vai trò của người phụ nữ Việt Nam, mạnh mẽ – kiên cường.
Như vậy, bạn đọc đã nắm được Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa năm nào. Bên cạnh đó, ta cũng thấy được rằng dù đã hàng nghìn năm trôi qua, nhưng cuộc khởi nghĩa này vẫn để lại nhiều bài học quý giá cho người dân Việt Nam.