TỔNG QUAN NƯỚC MALAYSIA
1) Vị trí địa lý và các vùng lãnh thổ
Malaysia là quốc gia nằm khu vực Đông Nam Á, nằm ở phía Bắc đường xích đạo, gồm hai khu vực không liền kề: Bán đảo Malaysia (Semenanjung Malaysia) hay còn được gọi là Tây Malaysia (Malaysia Barat) nằm trên bán đảo Mã Lai và Đông Malaysia (Malaysia Timur), nằm trên đảo Borneo. Thủ đô Malaysia là Kuala Lumpur, nằm ở bán đảo phía Tây, cách 40 km từ bờ biển; trung tâm hành chính, Putrajaya, nằm cách Thủ đô Kuala Lumper khoảng 25 km về phía Nam.
Bán đảo phía Tây Malaysia có phía Bắc giáp với Thái Lan, có đường biến giới chung vào khoảng 480 km. Phía Nam giáp với Singapore, về phía Tây Nam, qua eo biển Malacca là đảo Sumatra ở Indonesia. Bán đảo phía Đông Malaysia bao gồm hai tiểu bang lớn nhất của đất nước, Sarawak và Sabah, hai tiểu bang này chiếm khoảng một phần tư phía Bắc của hòn đảo lớn Borneo và chia sẻ ranh giới đất liền với Indonesia (Kalimantan). Được bao quanh bởi Sarawak là một vùng đất nhỏ ven biển – vương quốc Brunei. Tổng diện tích của Malaysia là 330,803 km2, trong đó: bán đảo Tây Malaysia chiếm khoảng 40% và Đông Malaysia khoảng 60%.
Đất nước Malaysia gồm hai bán đảo: phía Đông và phía Tây.
Bán đảo phía Tây Malaysia bao gồm 11 bang sau đây:
– Perlis
+ Thủ Phủ: Kangar.
+ Diện tích 821 km2.
+ Dân số 227.025 người.
+ Perlis là bang nhỏ nhất của Malaysia. Bang này nằm ở phần phía Bắc của bán đảo Tây của Malaysia. Perlis giáp với hai tỉnh Satun và Songkhla của Thái Lan ở phía Bắc và bang Kedah ở phía Nam. Trong thời kỳ chi phối Perlis, người Xiêm gọi nơi đây là Palit. Perlis vốn là một phần của Kedah, mặc dù đôi khi nằm dưới quyền kiểm soát của Thái Lan hay Malaysia. Thủ phủ của bang là Kangar còn Dinh thự hoàng gia nằm ở Arau.
– Kedah
+ Thủ Phủ: Alor Setar.
+ Diện tích 9.500 km2.
+ Dân số 1,890,098 người.
+ Kedah giáp với bang Perlis và có đường biên giới quốc tế với hai tỉnh Songkhla và Yala của Thái Lan ở phía Bắc. Kedah giáp với bang Perak ớ phía Nam và bang Penang ở phía Tây Bắc. Thủ phủ và trụ sở hoàng gia là Alor Setar.
+ Kedah có hai phần là vùng đất liền với các đô thị chính là Alor Setar, Sungai Petani, Kulim và đảo Langkawi với đô thị chính là Kudah. Khu vực đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng và là nơi trồng lúa gạo. Langkawi là một quần đảo với rất ít người cư trú.
– Penang
+ Thủ Phủ: George Town.
+ Diện tích 1.048 km2.
+ Dân số 1.520.143 triệu người.
+ Penang (tiếng Mã Lai: Pulau Pinang) là một bang tại Malaysia và được định danh theo đảo cấu thành nên bang. Bang Penang nằm ở vùng bờ biển Tây Bắc, sát eo biển Malacca. Penang giáp với Kedah ở phía Bắc và Đông, giáp với Perak ở phía Nam. Penang là bang nhỏ thứ hai tại Malaysia về diện tích sau Perlis, và là bang đông dân thứ tám. Penang gồm hai bộ phận – đảo Penang là nơi đặt trụ sở chính phủ, Seberang Perai nằm trên đất liền. Penang là nơi đô thị hóa và công nghiệp hóa cao độ, là một trong các bang phát triển nhất và quan trọng nhất về mặt kinh tế tại Malaysia, đồng thời là một điểm đến du lịch phát triển mạnh. Penang có chỉ số phát triển con người cao thứ hai tại Malaysia, sau Kuala Lumpur. Penang là bang có đa dạng cao độ về dân cư, văn hóa, ngôn ngữ, và tôn giáo.
– Perak
+ Thủ Phủ: Ipoh.
+ Diện tích 21.035 km2.
+ Dân số 2.258.428 người.
+ Perak là một trong 13 bang của Malaysia. Bang Perak có diện tích lớn thứ hai ở Bán đảo Tây Malaysia. Perak giáp với Kedah và tỉnh Yala của Thái Lan ở phía Bắc, Penang ở phía Tây Bắc, Kelantan và Pahang ở phía Đông, Selangor ở hướng Nam và phía Tây là eo biển Malacca. Perak trong tiếng Mã Lai có nghĩa là “bạc”. Tên này được bắt nguồn từ màu sắc óng ánh giống như bạc của thiếc. Thủ phủ của bang là Ipoh và thủ phủ hoàng gia của bang là Kuala Kangsar.
– Selangor
+ Thủ Phủ: Shah Alam.
+ Diện tích 8.104 km2.
+ Dân số 5.411.324 người.
+ Selangor là một trong 13 bang của Malaysia. Bang này nằm trên bờ biển Tây của bán đảo Mã Lai và giáp Perak về phía Bắc, Pahang về phía Đông, Negeri Sembilan về phía Nam và eo biển Malacca về phía Tây. Selangor hoàn toàn được bao quanh bởi các lãnh thổ liên bang Kuala Lumpur và Putrajaya.
– Negeri Sembilan
+ Thủ Phủ: Seremban.
+ Diện tích 6.686 km2.
+ Dân số trên 997.071 người.
+ Negeri Sembilan nằm tại duyên hải phía Tây của Bán đảo Malaysia, ngay phía Nam của Kuala Lumpur và giáp với Selangor tại phía Bắc, Pahang tại phía Đông, và Malacca cùng Johor tại phía Nam. Tên gọi của bang được cho là bắt nguồn từ chín (Sembilan) làng (Nagari) trong ngôn ngữ Minangkabau. Những đặc trưng của dân tộc Minangkabau vẫn hiện diện trong kiến trúc truyền thống và phương ngôn Mã Lai được nói tại bang.
– Malacca
+ Thủ Phủ: Malacca City.
+ Diện tích 1.664 km2.
+ Dân số 830.900 người.
+ Malacca biệt danh Bang Lịch sử, là bang nhỏ thứ ba của Malaysia, sau Perlis và Penang. Nó giáp với Negeri Sembilan phía Bắc và Johor phía Nam. Thủ phủ bang là thành phố Malacca. Thành phố lịch sử này đã được UNESCO công nhận là di tích lịch sử từ 07/07/2008.
– Johor
+ Thủ Phủ: Johor Bahru.
+ Diện tích 19.210 km2.
+ Dân số 3.348.283 người.
+ Johor là một bang của Malaysia, nằm tại phần phía Nam của Malaysia bán đảo. Đây là một trong các bang phát triển nhất tại Malaysia. Thủ phủ của bang Johor là Johor Bahru, từng được gọi là Tanjung Puteri. Thành phố vương tộc của bang là Muar đồng thời là một địa điểm du lịch nổi tiếng tại Malaysia.
– Pahang
+ Thủ Phủ: Kuantan.
+ Diện tích 35.840 km2.
+ Dân số 1.623.200 người.
+ Với diện tích 35.840 km2 đây là bang rộng thứ ba của Malaysia, sau Sarawak và Sabah. Bang này chiếm chừng 10,9% tổng diện tích Malaysia. Tuy vậy, với dân số 1,63 triệu dân, đây chỉ là bang đông dân thứ chin. Thủ phủ và thành phố lớn nhất của Pahang là Kuantan.
– Terengganu.
+ Thủ Phủ: Kuala Terengganu.
+ Diện tích 13.035 km2.
+ Dân số 1,015,776 người.
+ Terengganu là một vương quốc Hồi giáo và một bang cấu thành của Malaysia. Thành phố ven biển Kuala Terengganu nằm ở cửa sông Terenganu đóng vai trò vừa là thủ phủ của bang và của vương thất, cũng là thành phố lớn nhất Terengganu. Terenganu nằm ở phía Đông Bắc của Malaysia Bán đảo, giáp với Kelantan về phía Tây Bắc, với Pahang ở hướng Tây Nam và giáp Biển Đông ở phía Đông. Một vài hòn đảo xa bờ bao gồm Pulau Perhentian, Pulau Kapas và Pulau Redang cũng thuộc về bang.
– Kelantan
+ Thủ Phủ: Kota Bharu.
+ Diện tích 15.099 km2.
+ Dân số 1.459.994 người.
+ Kelantan là một bang của Malaysia. Kelantan nằm ở góc Đông Bắc của Malaysia Bán đảo. Bang giáp với tỉnh Narathiwat của Thái Lan ở phía Bắc, Terengganu ở phía đông, Perak ở phía Tây và Pahang ở phía Nam. Bang giáp với biển Đông ở phía Bắc. Kelantan là một bang nông nghiệp với những đồng lúa và các làng chài ven biển. Thủ phủ và trụ sở hoàng gia của bang là Kota Bharu.
Bán đảo phía Đông Malaysia bao gồm 2 lãnh thổ liên bang sau đây:
– Sarawak
+ Thủ Phủ: Kuching.
+ Diện tích 124.450 km2.
+ Dân số 2.636.000 người.
+ Sarawak là một trong hai lãnh thổ liên bang của Malaysia nằm trên đảo Phía Đông Malaysia -Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại bán đảo phía Tây Mã Lai. Sarawak nằm tại miền Tây Bắc đảo Borneo, giáp với bang Sabah về phía Đông Bắc, giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía Nam, và giáp với quốc gia độc lập Brunei tại Đông Bắc. Thành phố thủ phủ bang là Kuching, đây là trung tâm kinh tế của bang và là nơi đặt trụ sở chính phủ cấp bang. Các thành thị lớn khác tại Sarawak gồm Miri, Sibu, và Bintulu. Srawak có khí hậu xích đạo cùng các khu rừng mưa nhiệt đới và các loài động thực vật phong phú. Sarawak sở hữu một số hệ thống hang động đáng chú ý tại Vườn quốc gia Gunung Mulu. Sông Rajang là sông dài nhất tại Malaysia; Đập Bakun trên một phụ lưu của sông này nằm trong số các đập lớn nhất của Đông Nam Á. Núi Murud là điểm cao nhất tại Sarawak.
– Sabah
+ Thủ Phủ: Kota Kinabalu.
+ Diện tích 72.500 km2.
+ Dân số 3.543.500 người.
+ Sabah là một trong hai vùng lãnh thổ liên bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sarawak). Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại Malaysia bán đảo. Sabah nằm tại miền Bắc đảo Borneo, có biên giới với bang Sarawak về phía Tây Nam, và giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía Nam, bị chia tách qua biển với Lãnh thổ Liên bang Labuan và Việt Nam ở phía Tây và với Philippines về phía Bắc và Đông. Kota Kinabalu là thành phố thủ phủ và trung tâm kinh tế của bang. Các đô thị lớn khác tại Sabah là Sandakan và Tawau. Sabah có khí hậu xích đạo, có các khu rừng mưa nhiệt đới với các loài động thực vật phong phú. Bang có một dãy núi dài tại phía Tây là bộ phận của Vườn quốc gia Dãy Crocker. Sông Kinabatangan là sông dài thứ nhì tại Malaysia còn Núi Kinabalu là điểm cao nhất tại Sabah cũng như Malaysia.
2) Khí hậu
Nằm gần đường xích đạo, khí hậu của Malaysia được phân loại là xích đạo, nóng và ẩm quanh năm. Lượng mưa trung bình là 2500 mm một năm và nhiệt độ trung bình là 27 ° C. Khí hậu của bán đảo và phương Đông khác nhau, vì khí hậu trên bán đảo bị ảnh hưởng trực tiếp bởi gió từ đất liền, trái ngược với thời tiết biển nhiều hơn của phương Đông. Malaysia tiếp xúc với hiệu ứng El Niño, làm giảm lượng mưa vào mùa khô. Biến đổi khí hậu có thể có tác động đáng kể đến Malaysia, làm tăng mực nước biển và lượng mưa, làm tăng nguy cơ ngập lụt và dẫn đến hạn hán lớn.
Có hai kiểu gió mùa tại Malaysia. Gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9 và gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 3. Gió mùa Đông Bắc mang lại lượng mưa nhiều hơn so với gió mùa Tây Nam, bắt nguồn từ Trung Quốc và Bắc Thái Bình Dương. Gió mùa tây nam bắt nguồn từ sa mạc của Úc. Tháng ba và tháng mười là thời điểm giao thoa giữa hai kiểu gió mùa.
3) Dân số
Dân số hiện tại của Malaysia là 31.998.360 người vào ngày 23/05/2018 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Dân số Malaysia hiện chiếm 0,41% dân số thế giới. Malaysia đang đứng thứ 44 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Mật độ dân số của Malaysia là 97 người/km2. Với tổng diện tích là 328.543 km2. 77% dân số sống ở thành thị (24.482.151 người vào năm 2016). Độ tuổi trung bình ở Malaysia là 29 tuổi.
4) Kinh tế Malaysia
Nền kinh tế của Malaysia là lớn thứ 4 ở Đông Nam Á, và là nền kinh tế lớn thứ 38 trên thế giới. Năng suất lao động của Malaysia cao hơn đáng kể so với các nước láng giềng Indonesia, Philippines hay Việt Nam do cường độ cao của các ngành công nghiệp dựa trên tri thức và áp dụng công nghệ tiên tiến cho sản xuất và nền kinh tế kỹ thuật số. Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2017, nền kinh tế Malaysia là quốc gia cạnh tranh thứ 23 trên thế giới trong giai đoạn 2017-2018.
Công dân Malaysia dẫn đầu một lối sống giàu có hơn nhiều so với các đồng nghiệp của họ ở các nước có thu nhập trung bình như Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil. Điều này là do thuế thu nhập quốc gia thấp, chi phí thức ăn địa phương thấp, nhiên liệu vận chuyển, vật dụng cần thiết cho hộ gia đình, trợ cấp y tế công cộng và trợ cấp xã hội toàn diện được trợ cấp đầy đủ với chuyển tiền trực tiếp. Với thu nhập bình quân đầu người là 28.681 đô la Mỹ năm 2017 theo và GDP danh nghĩa là 10.620 đô la Mỹ, Malaysia là quốc gia giàu có thứ ba ở Đông Nam Á sau các thành phố nhỏ hơn của Singapore và Brunei. Malaysia có nền kinh tế thị trường mới được công nghiệp hoá, tương đối cởi mở và có định hướng nhà nước. Nền kinh tế Malaysia là rất mạnh mẽ và đa dạng với giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong năm 2015 đứng ở mức 57.258 tỷ USD, đứng thứ hai sau Singapore ở ASEAN. Malaysia xuất khẩu khối lượng và giá trị lớn thứ hai của sản phẩm dầu cọ trên toàn cầu sau Indonesia.
Mặc dù chính sách của chính phủ để tăng thu nhập bình quân đầu người để đẩy nhanh tiến độ đối với nước có thu nhập cao vào năm 2020, tăng trưởng tiền lương của Malaysia đã rất chậm, tụt hậu so với tiêu chuẩn OECD. Nghiên cứu học thuật của IMF và Ngân hàng Thế giới đã nhiều lần kêu gọi cải cách cơ cấu và đổi mới nội sinh để đưa đất nước lên chuỗi giá trị sản xuất để cho phép Malaysia thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình hiện tại do sự phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu dầu đối với doanh thu của chính phủ trung ương, biến động tiền tệ đáng chú ý trong thời gian cung cấp và giá dầu sụp đổ trong năm 2015. Tuy nhiên, chính phủ đã tăng cường các biện pháp để tăng doanh thu bằng cách giới thiệu thuế hàng hóa và dịch vụ ( GST) với tỷ lệ 6% để giảm thâm hụt và đáp ứng các nghĩa vụ nợ liên bang.
5) Chính trị Malaysia
Chính trị của Malaysia diễn ra trong khuôn khổ một chế độ quân chủ lập hiến dân chủ đại diện liên bang, trong đó Yang di-Pertuan Agong là người đứng đầu nhà nước và Thủ tướng Malaysia là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp được thực hiện bởi chính phủ liên bang và 13 chính phủ tiểu bang. Quyền lập pháp liên bang được trao cho quốc hội liên bang và 13 hội đồng nhà nước. Tư pháp độc lập với người điều hành và cơ quan lập pháp, mặc dù chủ tịch điều hành duy trì một mức độ ảnh hưởng nhất định trong việc bổ nhiệm thẩm phán cho tòa án.
Hiến pháp Malaysia được mã hóa và hệ thống chính phủ dựa trên hệ thống Westminster. Phân cấp thẩm quyền ở Malaysia, theo Hiến pháp Liên bang, quy định ba nhánh (các thành phần hành chính) của chính phủ Malaysia bao gồm chi nhánh hành pháp, tư pháp và lập pháp. Trong khi đó, Quốc hội bao gồm Dewan Negara (Thượng viện / Hạ viện) và Dewan Rakyat (Hạ viện / Hạ viện).
Malaysia đã có một hệ thống đa đảng kể từ cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên của Hội đồng Lập pháp Liên bang Malaya năm 1955 trên cơ sở đầu tiên trong quá khứ. Đảng cầm quyền là liên minh Đảng Liên minh (Malay: Parti Perikatan) và từ năm 1973 trở đi, người kế nhiệm của nó, liên minh Barisan Nasional (Mặt trận Quốc gia). Kể từ cuộc tổng tuyển cử lần thứ 14 được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 năm 2018, liên minh Pakatan Harapan được bầu làm chính phủ liên bang mới.
Liên minh Pakatan Harapan hiện bao gồm (PKR) Đảng Tư pháp Nhân dân (Malaysia), Đảng Hành động Dân chủ (Malaysia), Đảng Tin tưởng Quốc gia (Malaysia), Đảng Bản địa Malaysia, và Đảng Di sản Sabah. Đối lập được tạo thành từ một trong chính phủ phục vụ dài nhất thế giới Barisan Nasional, Đảng Hồi giáo Pan-Malaysia (PAS), Đảng Xã hội Malaysia (PSM) và các đảng nhỏ khác.
Mặc dù chính trị Malaysia đã tương đối ổn định, các nhà phê bình cho rằng “chính phủ, đảng cầm quyền, và chính quyền được gắn bó với một số lực lượng đối kháng.” Tuy nhiên, kể từ ngày bầu cử tổng thống ngày 8 tháng 3 năm 2008, giới truyền thông về chính trị của đất nước đã tăng đáng kể.
6) Các địa điểm du lịch nồi tiếng tại Malaysia
Nếu các nước được trao giải cho sự đa dạng, Malaysia sẽ đứng đầu trong danh sách đó. Malaysia không chỉ là nơi giao thoa giữa của nền văn hóa khác nhau, mà còn là nơi của nhiều phong tục, ẩm thực và tôn giáo khác cùng tồn tại một cách hòa bình và tôn trọng. Từ các nhóm đảo lớn đến núi non, những vùng cao nguyên màu mỡ hay là những khu rừng nhiệt đới, tất cả đều thể hiện sự đa dạng trong địa lý của Malaysia. Hơn nữa, Malaysia là một quốc gia duy nhất trong đó được chia thành hai vùng đất chính. Tây Malaysia chiếm nửa phía Nam của một bán đảo chia sẻ với Thái Lan, Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo. Sau đây là một vài địa điểm du lịch nổi tiếng mà du khách không nên bỏ qua khi tham quan đất nước Malaysia xinh đẹp.
– Kota Bharu.
Thường được sử dụng như là điểm dừng chân của nhiều du khách đến thăm Quần đảo Perhentian xinh đẹp, Kota Bharu mang đến nét duyên dáng độc đáo, các điểm tham quan, mua sắm và ẩm thực. Nằm ở bán đảo Malaysia gần biên giới Thái Lan, Kota Bharu là thủ phủ của bang Kelantan. Phần lớn cuộc sống Kota Bharu xoay quanh các khu chợ nhộn nhịp của thành phố, trong đó; Chợ Trung tâm là khu chợ lớn nhất được bao quanh bởi các cửa hàng cà phê và những con phố đông đúc rải rác với những chiếc xích lô cũ, Chợ Trung tâm cũng là nơi những phụ nữ địa phương đang làm việc và bán rau quả đầy màu sắc.
– Melaka.
Tọa lạc tại một vị trí quan trọng trên tuyến đường biển bận rộn giữa Ấn Độ và Trung Quốc trên bờ biển phía Tây Nam của Tây Malaysia, Melaka được cai trị và chiến đấu trong nhiều thế kỷ giữa chính phủ Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan. Kết quả là, ngày nay thành phố Mekela là một trong những thành phồ hiện đại và là nơi tốt nhất để ghé thăm tại Malaysia với kiến trúc, văn hóa, truyền thống và ẩm thực, tất cả đều phản ánh di sản phong phú của Mekela. Khu định cư Bồ Đào Nha ở Melaka được đặc trưng bởi các biệt thự duyên dáng và các pháo đài cũ còn lưu lại nơi đây. Khu vực Hà Lan có một số kiến trúc Hà Lan cổ nhất ở phía Đông.
– Cameron Highlands.
Cao nguyên Cameron ở Dãy núi Titiwangsa là một trong những điểm du lịch lâu đời nhất của Malaysia. Được phát triển với một khu vườn quyến rũ của Anh, vùng đất hoang xinh đẹp này có cảnh quan tươi tốt, rừng, hồ, động vật hoang dã và các hoạt động giải trí ngoài trời. Là nơi sản xuất hoa và trà chính của Malaysia, Cao nguyên Cameron cũng có rất nhiều đồn điền trà và trang trại hoa đầy màu sắc. Nhiều cơ sở trong số này mở cửa cho khách du lịch vào tham quan và chụp ảnh lưu niệm.
– Kota Kinabalu.
Thủ phủ của bang Sabah ở Borneo của Malaysia, Kota Kinabalu là một điểm đến du lịch phát triển nhanh do gần với các hòn đảo nhiệt đới, rừng nhiệt đới, nơi trú ẩn động vật hoang dã, công viên quốc gia và đỉnh núi Kinabalu cao nhất Malaysia. Kota Kinabalu có một trung tâm thành phố nhỏ, tự hào với một số địa danh, đài tưởng niệm và đài quan sát, nơi có tầm nhìn tuyệt đẹp ra quang cảnh thành phố.
– Kuching.
Thành phố lớn nhất trên Đảo Borneo, Kuching là một cơ sở nổi tiếng để khám phá khu rừng mưa nhiệt đới của Borneo và bang Sarawak. Ngoài ra, Kuching cung cấp rất nhiều địa điểm du lịch thu vị cho khách du lịch trong thời gian lưu trú của họ, từ các địa danh lịch sử tham quan đến các khu chợ nhộn nhịp và giải trí ngoài trời. Thành phố này nằm trên bờ sông Sarawak với bờ sông tuyệt đẹp tạo cảnh quan cho tầm nhìn ra các địa danh lịch sử như Fort Margherita và cung điện Astana.
– Penang.
Nằm ở eo biển Malacca ngoài khơi bờ biển phía Tây Bắc của bán đảo Tây Malaysia, đảo Penang nơi có thành phố George Town lịch sử là một điểm đến du lịch nổi tiếng. Với vị trí dọc theo một trong những tuyến đường vận chuyển du lịch nhiều nhất thế giới, Penang sở hữu một loạt các nền văn hóa, kiến trúc và ẩm thực đầy màu sắc. Chuyến viếng thăm Penang sẽ không thực sự trọn vẹn nếu du khách không có một chuyến đi xích lô hoặc đi bộ xung quanh thành phố thủ đô của hòn đảo, George Town, để xem kiến trúc thuộc địa Anh còn soát lại và các ngôi đền lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ.
– Kuala Lumpur.
Cách đây chưa đầy 200 năm, Kuala Lumpur chỉ là một thị trấn khai thác thiếc yên tĩnh ở Tây Malaysia. Ngày nay, ngôi làng bình yên này đã phát triển thành thủ đô và đô thị lớn nhất của đất nước. Thường được người dân địa phương gọi là KL, Kuala Lumpur là nơi các nền văn hóa gặp nhau, được ghi nhận cho những tòa nhà chọc trời ấn tượng và những cảnh nhộn nhịp về mua sắm và ăn uống. KL không thực sự có trung tâm thành phố như những thành phố khác trên thế giới mà sự phát triển của KL tương đối đồng đều ở hầu hết các khu vực như: Quận thuộc địa cũ có kiến trúc đặc biệt, Quảng trường Merdeka với lối kiến trúc hài hòa, Chinatown là một trung tâm du lịch nhộn nhịp, trong khi đó, Tam Giác Vàng thể hiện sự hiện đại của thành phố với tòa Tháp Petronas chọc trời nổi bật nhất KL.