1. Người tinh khôn là gì?
Người tinh khôn có tên khoa học là Homo sapiens và là những con người xuất hiện rất sớm trên Trái Đất. Trong tiếng Latin homo có nghĩa là người và sapien có nghĩa là người tinh khôn. Tính đến thời điểm hiện nay, người tinh khôn là loài duy nhất còn sống trong chi Homo của họ Người. Những giống loài khác thuộc chi này gồm: Người khéo léo (Homo habilis), người đứng thẳng (Homo erectus), người lùn (Homo floresiensis), người Heidelberg (Homo heidelbergensis), người Neanderthal (Homo neanderthalensis) có thể còn nhiều chi nữa mới được khám phá hoặc đã bị tuyệt chủng. Trong các loài trên có giống người Homo sapiens idaltu cũng đã bị tuyệt chủng và giống người hiện đại ngày nay có tên khoa học đầy đủ nhất là Homo sapiens sapiens. Theo các nghiên cứu và lịch sử khoa học đã ghi nhận người tinh khôn có đặc điểm về mặt trí tuệ với thể tích não có tỉ lệ so với cơ thể là cao nhất trong giới sinh vật.
Người tinh khôn có dáng đứng thẳng, hai chi sau đảm nhận việc di chuyển, hai chi trước và bàn tay là cơ quan chuyên biệt để di chuyển và chế tạo dụng cụ lao động. Chính sự nhanh nhẹn và khả năng thích nghi của người tinh khôn đã khiến cho loài vật có sức tác động lớn nhất trên trái đất.
Vậy người tinh khôn cách đây bao nhiêu năm? Theo ghi chép về lịch sử tiến hóa, người tinh khôn xuất hiện cách đây khoảng 4 vạn năm về trước vào thời kỳ đồ đá.
Người tinh khôn xuất hiện ở đâu? Họ xuất hiện ở tất cả mọi nơi trên Trái Đất. Họ sống theo các nhóm hoặc theo từng gia tộc, họ hàng thân thiết với nhau. Di cốt của người khôn được tìm thấy chủ yếu ở những miền của Cựu lục địa và được phân chia thành 3 loại hình: Người Cơ rô – Ma-nhông (Cro-Magnon) tìm thấy ở hầu hết các hang động ở Anh, ở Bỉ và cả nước Pháp (động Cơ-rô – Ma-nhông ở miền Tây Nam nước Pháp), bên cạnh những công cụ bằng đá, xương động vật, ngà, tro bếp. .. Người Gơ-ri-man-di (Grimaldi) tìm thấy ở Bắc Ý, cũng xuất hiện gần song song với người Cơ-rô – Ma-nhông. Người Sơn Đỉnh Động tìm thấy trong một động ở Chu Khẩu Điếm (Trung Quốc) với tổng cộng bảy bộ sọ và hàng chục bộ xương cùng với vô số xương thú cùng hàng trăm công cụ lao động.
2. Đặc điểm của người tinh khôn:
Người tinh khôn xuất hiện trên trái đất vào niên đại cuối thời kỳ đồ đá tức vào khoảng 4 vạn năm trước đây. Một số đặc điểm nổi bật của người tinh khôn là:
Người tinh khôn có cấu trúc giống với người hiện đại: Kiểu người này có đầu ngắn; bàn tay nhanh nhẹn, linh hoạt, các ngón tay dài; xương sọ và thể tích bộ não lớn, trán cao, phẳng; cơ thể gọn gàng và cân đối, tạo thành tư thế phù hợp với những hoạt động phức tạp của con người.
Di cốt của người tinh khôn được tìm thấy ở tất cả các lục địa: Đây là bước nhảy vọt thứ hai, cùng lúc đó, Người cũng có các màu da khác nhau (vàng, đen, trắng). Do thích nghi lâu dài với các điều kiện sống khác nhau
Công cụ lao động tiên tiến hơn những chi người khác:
Người tinh khôn đã biết đẽo hai rìa của một mảnh đá nhỏ gọn và sắc bén hơn, để làm búa, rìu, cuốc. Họ cũng lấy xương động vật, cành cây đem gọt hoặc đẽo nhọn lại dùng làm rìu.
Người tinh khôn biết sử dụng cung tên và chế tạo vũ khí. Đây cũng là thành tựu lớn trong quá trình chế tạo công cụ và vũ khí. Với cung tên, con người mới săn bắn có hiệu quả và an toàn.
Thức ăn: Thức ăn của người tinh không cũng nhiều hơn đáng kể, nhất là thức ăn động vật, từ khi kĩ thuật thời đá cũ được hoàn thiện và đặc biệt là từ khi có cung tên.
Nơi ở: Ở thời kỳ của người tinh không giống người này đã rời hang động ra dựng lều, định cư ở những địa điểm thuận tiện hơn. Cư trú “nhà cửa” phổ biến ở Người tinh khôn từ cuối thời đá cũ
3. Đời sống xã hội của người tinh khôn như nào?
Rất nhiều người thắc mắc người tinh khôn có đời sống như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về nội dung này qua các thông tin dưới đây.
Khi so sánh người tối cổ thì thời kì này người tinh khôn đã biết mài hai rìa của một mảnh đá để làm cho nó trở nên sắc nhọn và dùng làm rìu, dao hay nạo. Họ còn lấy xương cá, cành cây đem đi mài hoặc đẽo nhọn để làm cây lao cho hoạt động săn bắt.
Một trong những thành tựu quan trọng ở thời kỳ này là họ đã chế tạo ra được cung tên và đạt được hiệu quả rất tốt trong săn bắn. Nhờ vậy mà lượng thức ăn do săn bắn ngày càng tăng lên.
Người tinh khôn đã bắt đầu ra khỏi hang và lập trại để sinh sống ở các nơi thuận tiện hơn. Dần dần việc cư trú bên trong nhà cũng dần trở nên phổ biến như ở các thời đại đồ đá cũ.
Bước sang thời kỳ mới, người khôn cũng bắt đầu gọt các mảnh đá sắc bén ra làm rìu, dao, đục, . .. nhỏ gọn, tiện dùng hơn. Ngoài ra, họ đã bắt đầu biết đan lưới để đánh bắt cá bằng sợi vỏ cây, hoặc lưới làm bằng đất sét. Hơn nữa, họ cũng biết làm những vật dụng gốm sứ khác phục vụ trong việc nấu nướng thực phẩm như niêu, chảo, …..
Tổ chức xã hội của người tinh khôn chính là sinh hoạt theo các thị tộc và bộ lạc. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu kỹ hơn về mỗi hình thức để hiểu rõ hơn nhé!
Thị tộc
Thị tộc là cộng đồng khoảng vài trăm người có chung huyết thống. Ở thời kì này, do trình độ và lực lượng sản xuất vẫn còn chưa phát triển nên nguồn sống vẫn chủ yếu dựa vào việc trồng trọt và chăn nuôi. Do đó mà người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong thị tộc.
Chế độ quần hôn ở thời kỳ đầu cùng với địa vị độc tôn của những người phụ nữ chính là cơ sở để hình thành nên chế độ mẫu hệ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng đã dần làm thay đổi vị trí của những người đàn ông trong thị tộc. Từ đó, hình thức thị tộc phụ hệ ra đời và dần thay thế chế độ mẫu hệ.
Theo ghi chép lịch sử thì lãnh đạo của thị tộc là một hội đồng mà người đứng đầu là tộc trưởng được mọi người bầu ra. Các hoạt động quản lý điều hành thị tộc đều sẽ dựa trên nghị quyết của hội nghị gồm các nam nữ đã thành niên trong tộc. Tộc trưởng sẽ nhận được sự tôn kính và điều khiển hội nghị.
Bộ lạc
Bộ lạc là cộng đồng người hình thành do những thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Theo đó, mỗi một bộ lạc sẽ bao gồm nhiều thị tộc và trong đó có một thị tộc đặc biệt được gọi là bào tộc. Vì vậy, các bạn có thể hiểu mỗi thị tộc sẽ được xác định là một đơn vị cơ sở của xã hội, bào tộc, toàn bộ chế độ thị tộc hay bộ lạc đều sẽ phát triển từ đơn vị ấy và là điều tất yếu hầu không thể ngăn cản nổi. Bởi vì đây đều là những điều hoàn toàn tự nhiên.
Về mặt số lượng người, có những bộ lạc sẽ lên đến hàng vạn người. Trên thực tế, mỗi bộ lạc có một tên gọi riêng, sử dụng chung ngôn ngữ và có chung các tục lệ, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa.
4. Các chủng tộc người tinh khôn:
Qua sự nghiên cứu của các nhà nhân loại học, người ta phân biệt 3 chủng tộc lớn:
Đại chủng tộc Nê-gơ-rô-ô-xtơ-ra-lô-ít hay đại chủng Xích Đạo, ví như những người da đen Châu Phi, những người thổ dân châu Úc.
Đại chủng Ơ-rô-pê-ô-ít hay đại chủng Âu – Á, ví như các dân tộc ở Châu Âu, Bắc Phi, Tiền Á, Bắc Ấn.
Đại chủng Mông-gô-lô-ít hay đại chủng Á – Mỹ, ví như các dân tộc ở Trung Á và Bắc Á, Đông Á và Nam Á, thổ dân châu Mỹ người In-đi-an.
Giữa các chủng tộc lớn này, có những chủng tộc nhỏ trung gian, quá độ và trong mỗi một chủng tộc lớn có thể chia ra làm nhiều nhánh nhỏ hơn, mà sự khác nhau giữa các nhánh đó ít rõ rệt hơn. Trong quá trình phát triển của lịch sử, các chủng tộc thường sống trà trộn với nhau, nên không giống người nào là thuần túy cả.