Giới thiệu khái quát thị xã Ninh Hoà
Thị xã Ninh Hoà là vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, thuộc tỉnh Khánh Hoà, nằm về phía Đông vòng cung Bắc Nam của dải Trường Sơn trên toạ độ từ 12020’ – 12045’ độ Vĩ Bắc và từ 105o52’ – 109o20’ độ Kinh Đông. Thị xã Ninh Hòa phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây giáp huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk; Tây Nam giáp huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa; Tây Bắc giáp huyện sông Hinh, tỉnh Phú Yên; phía Nam giáp huyện Diên Khánh và thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; phía Bắc giáp huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.. Trung tâm thị xã cách thành phố Nha Trang 33 km về phía Bắc (theo quốc lộ 1A).
Đặc điểm địa hình
Ninh Hòa có tổng diện tích đất tự nhiên là 119.777 ha, có trên 70% là núi rừng, 0,44% là động cát ven biển.
Đồng bằng nơi đây là một lòng chảo hơi tròn, ba mặt bị núi bao bọc, bán kính khoảng 15 km. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Vùng trung tâm đồng bằng đất đai tương đối phì nhiêu.
Địa hình thị xã Ninh Hòa bị chia cắt nhiều bởi núi cao, nhiều dốc và đèo hiểm trở. Phía Tây trên quốc lộ 26 có đèo Dốc Đất, đèo Phượng Hoàng. Phía Nam trên quốc lộ 1A có đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì. Phía Bắc có dốc Giồng Thanh, dốc Đá Trắng. Phía Đông đồng bằng có dải núi Hòn Hèo chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, ba mặt nhô ra biển tạo thành một bán đảo lớn (146 km2) với nhiều đỉnh cao trên 700m.
Bờ biển Ninh Hoà có nhiều nơi lồi lõm, khúc khuỷu, có nhiều cửa sông, cửa lạch nằm sâu trong đất liền. Bờ biển có nhiều nơi bãi triều rộng thuận lợi cho nghề nuôi trồng hải sản xuất khẩu và làm muối.
Khí hậu
Ninh Hòa nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương nên quanh năm khí hậu nơi đây tương đối ôn hoà, mùa đông không rét buốt với nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,60C, độ ẩm bình quân hàng năm là 70%-80%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1350 mm, thời tiết mưa rải không đều, hàng năm mưa nhiều vào tháng 10, tháng 11, thường gây lũ lớn nhưng ít khi có bão. Mùa khô nắng nhiều, gió Tây Nam thổi mạnh, thường gây hạn hán gay gắt. Nhiệt lượng ánh sáng dồi dào với 2.482 giờ nắng trong năm, tổng nhiệt lượng bình quân trong năm 9.5000C.
Hệ thống sông suối và nguồn nước
Hệ thống sông suối ở thị xã Ninh Hoà tương đối dày, nhưng phân bố không đều. Vùng núi cao mật độ lưới sông dày khoảng 1km/km2, vùng đồng bằng ven biển có mật độ lưới sông mỏng hơn khoảng 0,6km/km2. Với đặc điểm địa hình chia cắt nên sông ngòi nơi đây thường ngắn và dốc, lưu lượng giữa mùa mưa và mùa khô chênh lệch rất lớn. Mùa mưa tốc độ dòng chảy bề mặt lớn thường gây lũ lụt. Vào mùa khô lưu lượng nước các sông thấp, nhiều sông suối bị khô cạn nhanh.
Thị xã Ninh Hoà có hệ thống sông chính là sông Cái dài 49 km, chia thành 2 nhánh lớn là nhánh sông Cái ở phía Nam và nhánh sông Đá bàn ở phía Bắc. Sông Cái có nguồn gốc từ núi Chư Hơ Mu ở độ cao 2051 m, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam và đổ ra đầm Nha Phu. Sông Cái Ninh Hòa có tiềm năng về thủy điện như Eakrôngru. Vùng thượng nguồn có hồ chứa nước Đá bàn và Suối Trầu.
Vùng thị xã Ninh Hòa có hai dạng nước ngầm chính gồm: dạng nước ngầm tồn tại trong trầm tích sông suối, tập trung ở các xã phía Tây và Tây Bắc của thị xã và dạng nước ngầm tồn tại trong trầm tích sông biển và biển, tập trung ở các xã phía Đông và Đông Nam của thị xã.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất: Toàn thị xã Ninh Hòa có 8 nhóm đất và 18 loại đất. Trong đó, nhóm đất có diện tích lớn nhất là nhóm đất đỏ vàng với 74.651 ha, chiếm 72,28% tổng diện tích đất, phù hợp sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp hoặc sản xuất nông – lâm kết hợp, phát triển vườn rừng. Nhóm đất phù sa có diện tích khá lớn là 7.281 ha, chiếm 7,05% tổng diện tích, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, có khả năng trồng nhiều loại cây khác nhau như lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
Tài nguyên rừng: theo thống kê năm 2005, toàn thị xã có 51.521,96 ha rừng. Trong đó, rừng sản xuất là 22.341,95 ha, rừng phòng hộ là 29.180,01 ha. Rừng Ninh Hoà có nhiều lâm thổ sản có giá trị kinh tế cao như gỗ cẩm lai, cà te, dáng hương, sao, bằng lăng… đặc biệt là kỳ nam, trầm hương là loại hương liệu, dược liệu quý. Rừng là nguồn giữ nước, cung cấp nước tưới và đảm bảo hệ sinh thái môi trường nhằm phát triển kinh tế bền vững cho thị xã Ninh Hòa.
Khoáng sản: địa bàn thị xã Ninh Hòa có các loại đá granit phục vụ xây dựng, đất sét cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp sản xuất gạch ngói và nguồn nước khoáng tự nhiên có thể khai thác để sản xuất đóng chai.
Tài nguyên biển và ven biển: bờ biển Ninh Hòa có đầm Nha Phu, nhiều cửa sông và diện tích bãi bồi ven sông ven biển lớn, thuận lợi cho nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, làm muối và thuận lợi để rừng ngập mặn phát triển, có ý nghĩa trong cân bằng sinh thái biển và phát triển du lịch sinh thái biển.
Tài nguyên sinh vật: Sinh vật biển có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như: cá thu, tôm, mực, các loại trai ốc. Cùng các sinh vật nước lợ (cá đỏ mang, cá trèn, cá trạch, cá hồng, cá chình) và sinh vật nước ngọt khu vực sông Dinh có giá trị kinh tế khác.
Tài nguyên du lịch: Thị xã Ninh Hòa là nơi có nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng. Theo thống kê, đến nay thị xã Ninh Hòa có 55 di tích lịch sử văn hóa – di tích lịch sử cách mạng đã được xếp hạng.Với đặc điểm địa hình bờ biển, sông suối, núi rừng nơi đây cùng với khí hậu tương đối ôn hòa, thị xã Ninh Hòa nổi tiếng với nhiều danh thắng đẹp như: Khu du lịch sinh thái Ninh Phước, Đầm Nha Phu, bãi biển Dốc Lết, bãi biển Hòn Khói, Khu du lịch Ba Hồ, Suối nước nóng Trường Xuân, thác nước Bay Ninh Thượng, bán đảo Hòn Hèo… Ninh Hòa còn là điểm đến lý tưởng cho những du khách đam mê ẩm thực, thích thưởng thức món ngon dân dã với hương vị đặc trưng của miền Trung Nam Bộ như bún cá Ninh Hòa, nem Ninh Hòa, bánh xèo Ninh Hòa.
Nghề truyền thống
Thị xã Ninh Hoà với điều kiện thổ nhưỡng, đặc điểm khí hậu, địa hình đã từ lâu hình thành nhiều nghề truyền thống lâu đời và đã có nguồn hàng hoá bán ra trong và ngoài tỉnh như hàng nông hải sản: cá khô, muối ăn, nước mắm; hàng thủ công nghiệp: đẩu mây, chiếu, đường, gạch ngói Ninh Hòa.
Ruộng lúa nơi đây đã đem lại nguồn thu nhập ổn định hàng năm cho các hộ nông dân gắn bó với nghề. Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản cũng phát triển với các loại loại thủy hải sản, tôm, cá, mực có giá trị kinh tế cao.
Giao thông Thị xã Ninh Hoà nằm tại ngã ba giao nhau của Quốc lộ 1A và Quốc lộ 26 đi Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Trung tâm thị xã cách thành phố Nha Trang 33 km, cách thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh 27 km và cách Buôn Ma Thuột 164 km. Thị xã Ninh Hòa còn là nơi có vị trí giao thông thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế với đường sắt Bắc – Nam đi qua và có các cảng biển trọng yếu thuộc phía nam vịnh Vân Phong có ý nghĩa trong phát triển dịch vụ trung chuyển dầu, cảng tổng hợp vận chuyển hàng hóa, khách du lịch. Lịch sử Từ giữa thế kỷ 17 (năm 1653), chúa Nguyễn Phúc Tần cho lập 2 phủ: phủ Diên Ninh và phủ Thái Khang. Phủ Thái Khang ở phía Bắc có hai huyện: Tân Định và Quảng Phước. Phủ Đường đóng trên bờ Bắc sông Cái thuộc làng Phước Đa (nay thuộc phường Ninh hiệp, thị xã Ninh Hoà).
Năm 1690, phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang. Năm 1744, lập dinh Bình Khang để thống quản 2 phủ Bình Khang và Diên Khánh, thủ phủ đều đóng tại đây. Từ đó, một số địa danh xung quanh mang tên Dinh cho đến ngày nay như: sông Dinh, cầu Dinh, chợ Dinh.
Từ năm 1774- 1792, dinh Bình Khang thuộc nhà Tây Sơn đến năm 1803 (năm Gia Long thứ 2) đổi thành dinh Bình Hoà (phủ Bình Khang cũng đổi thành phủ Bình Hòa). Năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), cái tên Ninh Hoà được chính thức ra đời từ việc phủ Bình Hoà đổi thành phủ Ninh Hoà.
Huyện Tân Định (nay là thị xã Ninh Hoà) có ranh giới từ đèo Rù Rì ra đến sông Dinh, huyện Đường đóng trên bờ Nam sông (khu vực trụ sở UBND thị xã Ninh Hoà ngày nay), phía bắc sông thuộc huyện Quảng Phước. Huyện Tân Định lúc đầu có một thuộc (tương đương cấp tổng) và một trang. Đến những năm đầu thế kỷ 19 (1810-1830) có 3 tổng, 68 làng.
Tổng Thân Thượng nằm về phía Tây và Tây Nam có 29 làng. Tổng Hiệp Trung nằm ở trung tâm có 20 làng. Tổng Ích Hạ nằm về phía Đông Nam giáp biển và kéo dài từ bến Đò Lá (Hà Liên, Tân Tế hiện nay) đến làng. Lương Sơn ở chân đèo Rù Rì có 19 làng.
Vào khoảng những năm 1930-1931, sau khi Quốc lộ 21 (nay là Quốc lộ 26) hoàn thành nối liền tỉnh Khánh Hoà với vùng Ban Mê Thuột, việc buôn bán tại huyện Tân Định trở nên phồn thịnh, lại thêm vùng Hòn Khói sản xuất muối ngon nổi tiếng, ghe thuyền ra vào tấp nập, chính quyền thực dân Pháp sát nhập huyện Tân Định và 3 tổng của huyện Quảng Phước cũ, do phủ Ninh Hoà kiêm lý là tổng Phước Khiêm, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại thành phủ Ninh Hoà, phần còn lại của huyện Quảng Phước lấy tên là huyện Vạn Ninh. Tên Tân Định mất từ đó.
Năm 1955-1956, nguỵ quyền Sài Gòn sát nhập tiếp tổng Phước Thiện và 5 buôn người dân tộc Ê Đê ở hai bên Quốc lộ 21 vào quận Ninh Hoà.
Năm 1959, Ninh Hoà tiếp nhận thêm một phần đất của tỉnh ĐăkLăk gồm 2 tổng (Krông-Ting và Krông-Hing), trong đó, có 5 xã, 30 buôn người dân tộc, đến năm 1961 lại được tách ra. Sau các giai đoạn hợp lại tách ra đến năm 1961 Phủ Ninh Hoà có 7 tổng, 20 xã (có một xã người dân tộc thiểu số), 111 làng. Sau tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần thứ nhất nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ ngày 06/01/1946 nước ta thành lập đơn vị hành chính cấp xã mới, bỏ cấp tổng. Nhưng do quân Pháp đánh chiếm Ninh Hoà ngày 29/01/1946 việc lập xã kéo dài cho đến thời gian hoà hoãn của Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 mới hoàn thành trên địa bàn toàn phủ. Đến năm 1948, do Sắc lệnh số 148/SL, ngày 25/3/1948 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, các danh từ phủ, châu, quận đều bãi bỏ; đơn vị trên cấp xã và dưới cấp tỉnh nhất loạt gọi là cấp huyện. Trong vùng địch kiểm soát, từ năm 1949, ngụy quyền Sài Gòn bãi bỏ các danh từ phủ, huyện thay bằng tên gọi là quận. Năm 1951, đồng thời với việc xây dựng căn cứ kháng chiến Đá Bàn, hai huyện Ninh Hoà và Vạn Ninh đã hợp nhất thành liên huyện Bắc Khánh theo Nghị định số -2172 MN5, tháng 10 năm 1951 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đến tháng 3 năm 1953 lại được tách ra thành 4 vùng, mỗi vùng như một huyện nhỏ, do một Ban cán sự Đảng lãnh đạo.
Vùng Tây gồm các xã: Hoà Trí, Ninh Phước (Phước Thiện cũ) Liên An và khu phố Ninh Hoà.
Vùng Nam gồm các xã Hoà Dũng và Hoà Liêm.
Vùng Đông gồm các xã Hoà Tín, Hoà Nhân, Hoà Nghĩa và Hoà Chính.
Vùng Bắc là huyện Vạn Ninh ngày nay.
Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), huyện Ninh Hoà trở lại đơn vị hành chính thống nhất như cũ. Tháng 10/1961, Ninh Hoà được chia thành 2 huyện: huyện Nam Ninh Hoà (là vùng Nam trước đó), huyện Bắc Ninh Hoà (gồm vùng Đông và vùng Tây). Cuối năm 1962, huyện Bắc Ninh Hoà và huyện Vạn Ninh thành lập cơ quan lãnh đạo chung để lãnh đạo 2 huyện. Đến tháng 8/1966, huyện Vạn Ninh tách ra riêng, cuối năm đó, vùng Tây Ninh Hoà giao cho Vạn Ninh quản lý chỉ đạo cho đến năm 1968. Trong năm Mậu Thân 1968, hai huyện Nam – Bắc Ninh Hoà thống nhất thành một huyện chung, 6 tháng sau đó lại tách ra thành 2 huyện Nam, Bắc như cũ.
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, Ninh Hòa là vùng căn cứ cách mạng quan trọng, năm 1994 được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ; năm 1997 Nhà nước tăng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhân dân và cán bộ huyện Ninh Hoà; năm 2002 Nhà nước tặng huân chương lao động hạng nhất; năm 2007 huyện Ninh Hoà được Chính phủ tặng cờ thi đua hoàn thành xuất sắc toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước. Hợp tác xã thủ công mỹ nghệ xuất khẩu Vĩnh Phước thị trấn Ninh Hoà được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới; năm 2005 thị trấn Ninh Hoà được vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau giải phóng huyện ngày 02 tháng 4 năm 1975, Ninh Hoà trở lại đơn vị hành chính thống nhất, nhưng sau đó không bao lâu, tháng 01 năm 1976 Ninh Hoà và Vạn Ninh hợp nhất thành huyện Khánh Ninh. Đến ngày 05/3/1979 Hội đồng chính phủ có Quyết định số 85/CP chia huyện Khánh Ninh thuộc tỉnh Phú Khánh thành hai huyện lấy tên là huyện Ninh Hoà và Vạn Ninh.
Quá trình hình thành và phát triển từ huyện Tân Định đến thị xã Ninh Hoà ngày nay đã hơn 350 năm. Trong quá trình ấy, về địa lý hành chính có rất nhiều lần thay đổi về địa vực, tên gọi, nhiều lần hợp lại tách ra. Nhưng Ninh Hòa luôn là vùng đất giàu giá trị văn hóa nhân văn, giàu truyền thống yêu nước và luôn là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, có ảnh hưởng đến vùng lãnh thổ rộng lớn phía Bắc Nha Trang.
Ngày 25/10/2010, Chính phủ có Nghị quyết số 41/NQ-CP về việc thành lập thị xã Ninh Hòa và thành lập các phường thuộc thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Theo đó, thị xã Ninh Hòa có 119.777 ha diện tích tự nhiên và 235.098 nhân khẩu; có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm có 07 phường: Ninh Hiệp, Ninh Giang, Ninh Đa, Ninh Hà, Ninh Diêm, Ninh Thủy, Ninh Hải và 20 xã: Ninh Trung, Ninh Tây, Ninh Xuân, Ninh Thân, Ninh Thượng, Ninh Đông, Ninh Sơn, Ninh Thọ, Ninh Phụng, Ninh Bình, Ninh Phước, Ninh Phú, Ninh Tân, Ninh Quang, Ninh Sim, Ninh An, Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Ích và Ninh Vân.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển mới giai đoạn 2011 – 2015, Tỉnh ủy Khánh Hoà đã ra Nghị quyết 01-NQ/TU ngày 01/11/2010 của Tỉnh uỷ và Quyết định số 22/2011/QĐ-UBND ngày 05/9/2011 của UBND tỉnh Khánh Hoà về việc phê duyệt Chương trình phát triển hệ thống đô thị tỉnh Khánh Hoà giai đoạn năm 2011-2015, trong đó bao gồm việc thực hiện Quyết định 51/2005/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch Khu kinh tế Vân Phong là từng bước phát triển đô thị Ninh Hòa và khu vực phía Nam Vân Phong thành đô thị loại III vào năm 2020.
Với nỗ lực của Chính quyền và nhân dân thị xã Ninh Hòa, bộ mặt đô thị đã thay đổi mạnh mẽ, vai trò trung tâm dịch vụ thúc đẩy phát triển cho toàn vùng phía Nam Vân Phong. Đô thị của toàn thị xã Ninh Hòa cũng được khẳng định rõ nét hơn, chất lượng dịch vụ hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội, đời sống người dân được nâng cao rõ rệt. Đô thị Ninh Hòa đã và đang phát huy tốt vai trò trung tâm tiểu vùng động lực phía Bắc của tỉnh Khánh Hòa.
Dân cư Theo thống kê năm 2011, toàn thị xã có 235.098 nhân khẩu, mật độ dân số là 196 người/km2. Thị xã Ninh Hòa có 17 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc kinh chiếm tỷ lệ cao khoảng hơn 97 % và 16 dân tộc thiểu số gồm: Raglai, Ê đê, Thái, Mường, Tày, Nùng, Hoa, Khơ me, Thanh, Chăm, Bana, Thổ, Churu, Sán Dìu, Churô, Stiêng với 1.286 hộ, 5.258 khẩu, chiếm 2,1% dân số toàn thị xã, trong đó đông nhất là dân tộc Ê đê, Raglai, Hoa. Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung ở hai xã miền núi xã Ninh Tây, xã Ninh Tân và các xã miền núi khác của thị xã, số còn lại sống rải rác ở các xã, phường trên địa bàn thị xã. Đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn thị xã Ninh Hòa chủ yếu làm nghề nông như: trồng lúa, mía, mì và một số hoa màu khác. Hành chính Thị xã Ninh Hòa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm có 07 phường: Ninh Hiệp, Ninh Giang, Ninh Đa, Ninh Hà, Ninh Diêm, Ninh Thủy, Ninh Hải và 20 xã: Ninh Trung, Ninh Tây, Ninh Xuân, Ninh Thân, Ninh Thượng, Ninh Đông, Ninh Sơn, Ninh Thọ, Ninh Phụng, Ninh Bình, Ninh Phước, Ninh Phú, Ninh Tân, Ninh Quang, Ninh Sim, Ninh An, Ninh Hưng, Ninh Lộc, Ninh Ích và Ninh Vân.
Tiềm năng Ninh Hòa
Thị xã Ninh Hoà là nơi có vị trí giao thông thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế, nằm cách thành phố Nha Trang 33 km về phía Bắc, với nhiều tuyến giao thông đối ngoại quan trọng đi qua như đường sắt Bắc – Nam, Quốc lộ 1A và tuyến Quốc lộ 26 – 26B. Theo hướng Đông – Tây, Quốc lộ 26 – 26B nối Đăk Lăk và vùng Tây Nguyên với vùng kinh tế công nghiệp, du lịch và dịch vụ cảng biển quốc tế của vùng vịnh Vân Phong.
Theo Quy hoạch Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 51/2005/QĐ-TTg ngày 11/3/2005, theo đó hướng phát triển chủ yếu của phía Nam vịnh Vân Phong gồm Khu đô thị với các khu Dốc Lết, Ninh Thủy, Ninh Phước gắn kết với thị trấn Ninh Hòa (nay là phường Ninh Hiệp), Hòn Hèo, đầm Nha Phu phát triển thành đô thị loại III, với tính chất là đô thị du lịch, dịch vụ, giáo dục, đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề và công nghiệp; và phát triển Khu công nghiệp tại Ninh Thủy, kết hợp với khu công nghiệp đóng tàu. Xây dựng khu cảng dầu tại Hòn Mỹ Giang và kho xăng dầu ngoại quan; cảng tổng hợp tại Hòn Khói phía Tây Bắc khu Dốc Lết. Trong đó, khu công nghiệp Ninh Thuỷ có diện tích 206,4 ha là khu công nghiệp đa ngành dành cho sản xuất hóa chất, linh kiện thiết bị phục vụ ngành công nghiệp đóng tàu; sản xuất vật liệu xây dựng, hàng trang trí nội ngoại thất; dịch vụ… đang được Công ty TNHH Hoàn Cầu Nha Trang tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng sẽ là cơ hội cho các nhà đầu tư.
Cùng với sự đầu tư phát triển của Khu kinh tế Vân Phong với các cảng trung chuyển, cảng tổng hợp có giá trị tiềm năng kinh tế cao, kết hợp với tuyến đường sắt Bắc-Nam, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 26 đang là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, là tiềm năng để tạo một môi trường thuận lợi cho việc phát triển thương mại và dịch vụ của khu vực phía bắc tỉnh Khánh Hòa nói chung và cho thị xã Ninh Hòa nói riêng.
Vùng đất Ninh Hòa được thiên nhiên ưu đãi, với điều kiện về thổ nhưỡng vùng trung tâm đồng bằng tương đối phì nhiêu thích hợp với nhiều loại cây trồng, khí hậu ôn hòa, thời tiết tương đối ổn định cùng với hệ thống sông suối, kênh mương đảm bảo đáp ứng nước tưới tiêu cho việc canh tác nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trông thủy sản và đáp ứng nước cho sinh hoạt của người dân, trong đó, sông Cái Ninh Hòa là nguồn nước chính yếu của cánh đồng Ninh Hòa. Cây lúa, mía, thuốc lá và các cây lương thực, rau màu đã mang lại thu nhập chủ yếu cho nông dân của địa phương nơi đây và là nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định cho các nhà máy chế biến được xây dựng trên địa bàn của thị xã.
Bên cạnh việc cung cấp lượng nước đảm bảo cho nuôi trồng, sản xuất nông, lâm, thủy sản và cấp nước sinh hoạt cho người dân. Sông Cái Ninh Hòa còn có tiềm năng về thủy điện như Eakrongru có N=22MW, vùng thượng nguồn có hồ chứa nước Đá Bàn và Suối Trầu. Đồng thời, sông Cái Ninh Hòa cũng là nguồn cung cấp thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao.
Ngoài ra, vùng đất Ninh Hòa còn có tiềm năng về trữ lượng tương đối lớn của đất sét, đá vôi, là nguyên liệu cung cấp cho các xí nghiệp sản xuất gạch ngói, xi măng.
Bờ biển Ninh Hoà với đặc điểm có nhiều nơi lồi lõm, khúc khuỷu, có nhiều cửa sông, diện tích bãi bồi ven sông ven biển lớn, thuận lợi cho nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, làm muối và thuận lợi để rừng ngập mặn phát triển. Với diện tích 600 ha đất sản xuất muối, hàng năm Ninh Hòa đã cung cấp cho thị trường lượng muối bình quân là 40.000 tấn/năm.
Toàn thị xã có 51.521,96 ha rừng, trong đó, rừng sản xuất là 22.341,95 ha, rừng phòng hộ là 29.180,01 ha. Rừng Ninh Hoà có nhiều lâm thổ sản có giá trị kinh tế cao như gỗ cẩm lai, cà te, dáng hương, sao, bằng lăng… đặc biệt là kỳ nam, trầm hương là những loại hương liệu, dược liệu quý. Rừng là nguồn giữ nước, cung cấp nước tưới và đảm bảo hệ sinh thái môi trường nhằm phát triển kinh tế bền vững cho thị xã Ninh Hòa.
Thị xã Ninh Hòa là nơi có nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng. Theo thống kê, đến nay thị xã Ninh Hòa có 53 di tích lịch sử văn hóa – di tích lịch sử cách mạng đã được xếp hạng.Với đặc điểm địa hình bờ biển, sông suối, núi rừng nơi đây cùng với khí hậu tương đối ôn hòa, thị xã Ninh Hòa nổi tiếng với nhiều danh thắng đẹp như: Khu du lịch sinh thái Ninh Phước, Đầm Nha Phu, bãi biển Dốc Lết, bãi biển Hòn Khói, Khu du lịch Ba Hồ, Suối nước nóng Trường Xuân, thác nước Bay Ninh Thượng, bán đảo Hòn Hèo… Hầu hết các di tích, danh lam thắng cảnh nơi đây đều tập trung trên các tuyến đường giao thông thuận lợi, do vậy Ninh Hòa là điểm đến lý tưởng cho du khách đến tham quan, vui chơi, tìm hiểu văn hóa và nghỉ dưỡng.
Ninh Hòa còn nổi tiếng, thu hút du khách gần xa với các món ăn ẩm thực dân dã, là đặc sản quê hương mang đậm nét văn hóa của người dân nơi đây như nem Ninh Hòa, bún cá Ninh Hòa, bánh xèo Ninh Hòa cùng các món ăn thủy hải sản có giá trị dinh dưỡng cao.