Phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu để thấy được nét tài tình, khát khao mãnh liệt với đời, với người cùng cái tôi trữ tình trong Vội vàng mãnh liệt luôn muốn hòa mình vào thiên nhiên qua ngòi bút của Xuân Diệu có gì độc đáo?
I. Hướng dẫn phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng
Đề bài: Phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
1. Phân tích yêu cầu đề bài
– Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung và nghệ thuật của 13 câu đầu bài thơ Vội vàng.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh… có trong 13 câu thơ đầu (khổ 1) bài Vội vàng của Xuân Diệu.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Luận điểm 13 câu đầu bài Vội vàng
– Luận điểm 1: Ước muốn, khát vọng mãnh liệt của tác giả.
– Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên, tuổi trẻ và tình yêu.
>>>Tham khảo hướng dẫn soạn bài Vội vàng của Xuân Diệu để nắm được những ý chính cần triển khai và bổ sung luận cứ cho bài phân tích thêm chặt chẽ.
3. Kiến thức cần có trước khi làm bài
a) Kiến thức cơ bản về tác giả Xuân Diệu
– Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam, nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, là thành viên của Tự lực văn đoàn và còn được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”.
– Phong cách sáng tác: Thơ Xuân Diệu mang nhiều màu sắc khác nhau, là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông chủ yếu là về tình yêu, mùa xuân với tràn đầy sự tươi mới và yêu đời mãnh liệt. Sau Cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông hướng vào đời sống thực tế, những bài thơ về cách mạng mang đậm tính thời sự,…
– Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn là một nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học.
– Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
– Các tác phẩm chính: Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Một khối hồng, Thanh ca, Tôi giàu đôi mắt, Riêng chung, Mẹ con, Ngôi sao, Sáng, Dưới sao vàng,…(thơ); Ký sự thăm nước Hung, Triều lên, Trường ca, Phấn thông vàng, Việt Nam trở dạ, Việt Nam nghìn dặm,… (văn xuôi); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ, Đi trên đường lớn, Và cây đời mãi xanh tươi, Mài sắt nên kim,… (Tiểu luận phê bình); Thi hào Nadim Hitmet, Vây giữa tình yêu, Những nhà thơ Bungari,… (Dịch thơ)
– Một số nhận xét về Xuân Diệu:
+ “Xuân Diệu mới nhất trong nhà thơ mới” – Nguyễn Tuân.
+ “Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh” – Chế Lan Viên.
+ “Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta” – Hoài Thanh, Hoài Chân
+ “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. – Thế Lữ.
b) Kiến thức chung về tác phẩm Vội vàng
– Hoàn cảnh sáng tác: “Vội vàng” rút trong tập “Thơ Thơ” (1938) – tập thơ đầu tay khẳng định vị trí “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” của Xuân Diệu.
– Nội dung chính: Bài thơ bộc lộ quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu, lời giục giã sống hết mình của một hồn thơ yêu đời, ham sống cuồng nhiệt, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết.
– Đặc sắc nghệ thuật: Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí; cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ; sử dụng ngôn từ nhịp điệu, hình ảnh thơ đều có sự sáng tạo, độc đáo…
c) Tìm hiểu khái quát về khổ 1 bài Vội vàng (13 câu đầu )
– Vị trí đoạn thơ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
– Nội dung đoạn thơ: Tình yêu tha thiết của tác giả với cuộc sống nơi trần thế.
– Nghệ thuật: Biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa…; từ ngữ giàu sức biểu cảm; giọng thơ mạnh mẽ, tha thiết.
II. Lập dàn ý chi tiết phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng
1. Mở bài phân tích 13 câu đầu Vội vàng
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
+ Xuân Diệu (1916 – 1985) là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới với phong cách trữ tình lãng mạn, luôn khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt.
+ Vội vàng là thi phẩm kết tinh được nhiều bình diện phẩm chất thơ Xuân Diệu.
– Giới thiệu 13 câu thơ đầu: Đoạn thơ gồm 13 câu thơ đầu (khổ 1) của bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống nơi trần thế.
>>> Có thể tham khảo tuyển tập mở bài Vội vàng hay nhất hoặc mẫu mở bài dưới đây:
Vội vàng là một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc của nhà thơ Xuân Diệu. Nội dung chính của bài thơ là thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Niềm say mê thiên nhiên, tình yêu cuộc sống tha thiết của tác giả được thể hiện rất rõ qua 13 câu thơ đầu (khổ 1 bài thơ Vội vàng) của bài thơ.
2. Thân bài phân tích 13 câu đầu Vội vàng
Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 1 từ “Tôi muốn tắt nắng đi…” đến “…Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
a) Luận điểm 1: Ước muốn, khát vọng mãnh liệt của tác giả (4 câu đầu)
– Điệp ngữ “tôi muốn”
– “Nắng, gió”: những hiện tượng của tự nhiên mà vốn dĩ con người không thể nào kiểm soát
– “tắt đi”, “buộc lại” -> hành động cản lại sự vận hành theo quy luật của vũ trụ, là sự đoạt quyền của tạo hóa
– “Đừng nhạt mất”, “đừng bay đi”: ước muốn làm ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên, lưu giữ hương sắc của cuộc đời.
=> Ước muốn lưu giữ cho cuộc đời những gì đẹp nhất, ý thức được sự quý giá, vẻ đẹp của nắng xuân của hương hoa cỏ.
=> Bốn câu thơ đầu thể hiện ước muốn táo bạo, khát vọng mãnh liệt của tác giả: muốn ngự trị thiên nhiên, đoạt quyền tạo hóa, ngăn lại dòng chảy của thời gian.
=> Trái tim yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và say mê của tác giả.
b) Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên, tuổi trẻ và tình yêu (9 câu sau)
+) Bức tranh thiên nhiên
– Điệp ngữ “này đây”: giới thiệu, mời gọi mọi người đến với cảnh sắc của khu vườn nơi trần thế, tất cả như bày sẵn ngay trong tầm với.
– “ong bướm”, “hoa”, “đồng nội”, “cành tơ”, “yến anh” : bức tranh sống động, rực rỡ màu sắc, rộn rã âm thanh, tràn đầy sức sống
– Điệp từ “của” kết hợp với các hình ảnh gợi tả “tuần tháng mật”, “khúc tình si”,… khiến khu vườn xuân trở thành khu vườn tình ái.
-> Bức tranh thiên nhiên hữu tình sâu sắc, có đôi lứa thật lãng mạn, thiên nhiên mùa xuân đang trải dài trong khoảng không gian bao la, rộng lớn của đất trời vũ trụ.
+) Bức tranh tuổi trẻ và tình yêu
– Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” -> Hình ảnh nhân hóa chỉ một thứ ánh sáng tuyệt diệu, dịu dàng bao trùm khắp không gian.
=> Hình ảnh thiếu nữ khép hờ mắt dưới ánh nắng ban mai, mang dáng vẻ hình hài trẻ trung, son sắc là niềm say mê của nhà thơ.
– Hình ảnh so sánh đặc biệt “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” -> Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến vị của tháng năm, vị của thời gian, mùa xuân. Con người trở thành chuẩn mực của thiên nhiên.
=> Nỗi khát khao cháy bỏng với mùa xuân, với tuổi trẻ. Tác giả muốn sống trọn trong khoảng khắc hối hả của thời gian, tận hưởng cuộc sống một cách sung sướng và hối hả.
=> Xuân Diệu nhìn sự sống dưới lăng kính của tình yêu và tuổi trẻ, nhà thơ đắm say, giao hòa cùng vạn vật, cảm giác tiếc nuối thời gian.
+) Quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu:
– Quan niệm nhân sinh trong bài Vội vàng: Cuộc sống trên trần thế là một thiên đường nơi mặt đất.
– Quan niệm thẩm mỹ: Chuẩn mực của mọi cái đẹp trên thế gian là con người.
3. Kết bài phân tích 13 câu đầu Vội vàng
– Khái quát lại giá trị nội dung của 13 câu đầu Vội vàng
+ Nội dung: Đoạn thơ thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời, quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ mới mẻ của Xuân Diệu.
+ Đặc sắc nghệ thuật: Sử dụng những từ ngữ giàu sức biểu cảm; biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa…; giọng điệu thơ tha thiết, mạnh mẽ.
– Cảm nhận của em về đoạn thơ:
VD: Qua 13 câu đầu bài Vội vàng, Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn tích cực: Trong thế gian này đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu; thiên đường chính là cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thiết tha yêu, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến để mỗi ngày qua đi ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.
4. Sơ đồ tư duy phân tích 13 câu đầu Vội vàng (khổ thơ 1)
// Gợi ý thêm cho các bạn dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng bao gồm những dàn ý chi tiết để bạn dễ nắm bắt được bố cục của bài qua đó triển khai ý để viết được một bài văn phân tích hay.
III. Danh sách top 6 bài văn hay phân tích 13 câu đầu Vội vàng
1. Bài phân tích Vội vàng khổ 1 mẫu số 1
Thơ mới (1930 – 1943) được coi là một cuộc cách mạng trong thi ca Việt Nam. Ở thời kì này ta có thể thấy được “một hồn thơ rộng lớn” như Thế Lữ, “ảo não” như Huy Cận, “trong sáng” như Nguyễn Nhược Pháp và nổi bật trong đó, ta có Xuân Diệu – một nét thơ “tha thiết, rạo rực, băn khoăn” (Thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, là người đưa thơ mới lên vị trí đỉnh cao với tập thơ đầu tay và tiêu biểu nhất là “thơ thơ”.
Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ này, đã thể hiện nét độc đáo trong phong cách thơ được cách tân cả về nội dung lẫn hình thức của Xuân Diệu. Điều đó được khắc họa đặc biệt ở 13 câu thơ đầu, nét bút của Xuân Diệu đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đặc sắc sinh động và nổi bật ở đó là cả một khao khát sống hết mình, quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ mới mẻ của tác giả.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
“Vội vàng” được in trong tập “Thơ Thơ” sáng tác năm 1938, là tập thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. Nhan đề “Vội vàng” ở đây không được hiểu là cách sống vội, qua loa mà nó đã giúp thi nhân truyền tải một quan niệm sống tự giác và thể hiện giá trị cá nhân – đó cũng là một lẽ sống tích cực của nhà thơ luôn khát khao giao cảm với cuộc đời. Ở Xuân Diệu, chúng ta thường bắt gặp một cá tính thơ khoáng đạt, khác biệt và đầy sáng tạo có thể nói “có một không hai” trong thơ ca Việt Nam. Xuân Diệu đã mở màn cho “Vội vàng” bằng bốn câu thơ ngũ ngôn mà nhìn qua tưởng chừng “lệch nhịp” với toàn bài:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm, cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân. Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
Khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người. Điều này vừa hợp lí bởi nhà thơ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh); nhưng cũng vừa vô lí và không thể thực hiện được bởi con người làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là mỏng manh, ngắn ngủi, không tồn tại được mãi mãi đó.
Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần đã khẳng định ý nguyện của cái “tôi” tha thiết muốn giữ lấy vẻ đẹp chóng tàn phai của thiên nhiên; đồng thời làm nổi bật tâm hồn của một nhà thơ yêu đời, say mê thiên nhiên. Cách ngắt nhịp vội vã, dứt khoát càng tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn ông. Tuy nhiên, ẩn sâu trong khát vọng ngông cuồng, táo bạo ấy lại là một tình yêu cuộc sống đến tha thiết, khắc khoải. Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên thi sĩ muốn lưu lại những vẻ đẹp tự nhiên, thanh khiết của cuộc đời để mãi lưu giữ khoảnh khắc của thời tươi trẻ, để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời. Ông muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi.
Sau tâm trạng ấy là tiếng reo vui của nhà thơ. Trong cái nhìn của Xuân Diệu, sự sống quen thuộc quanh ta bỗng trở nên vô cùng hấp dẫn:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa”
Vì sao Xuân Diệu lại gấp gáp vội vàng để giữ gìn hương sắc cuộc đời? Vì sao phải tắt nắng, phải buộc gió mà không chờ đợi hương sắc ấy vào một giây phút khác? Những dòng thơ tiếp theo là sự lí giải nguyên nhân vì sao nhà thơ lại muốn chống lại quy luật của tự nhiên. Con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ về mùa xuân đã nhận ra vẻ đẹp của cuộc đời, thiên nhiên với những thực đơn phong phú. Mùa xuân của ong bướm, cỏ cây, hoa lá, mùa xuân của tạo vật tràn trề nhựa sống.
Cũng vẫn là thiên nhiên non nước ấy thôi, nhưng Xuân Diệu phát hiện ra bao vẻ đẹp bất ngờ, đáng yêu đáng say đắm. Xuân Diệu đã vui say, rộn ràng tận hưởng những vẻ đẹp diệu kì mà trời đất đã ban cho mỗi cuộc đời, mỗi con người. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây, sự phong phú dường như bất tận của thiên nhiên, đã bày ra một khu vườn địa đàng ngay giữa chốn trần gian – một “thiên đàng trần thế”.
Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường. Có thể nói đó là bức tranh tuyệt đẹp, là khu vườn tình ái đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới có thể nhìn thấy được “tuần tháng mật” của ong bướm, thấy được sắc màu xanh non của cành tơ với những chiếc lá đang “phơ phất”.
Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi nguyên ấy như được trưng bày ra trước mắt nhà thơ và bạn đọc qua điệp từ “này đây”. Chỉ có người thi sĩ ấy mới thấy được những bông hoa của đồng nội và nghe được khúc tình si của chim yến, chim oanh. Và cũng chỉ có Xuân Diệu mới cảm nhận được “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Mùa xuân đẹp và quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng Giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân.
Tác giả sử dụng từ “ngon” để thể hiện một khát khao, một cảm nhận riêng đến lạ lùng mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nà của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có đôi, gắn bó, quấn quýt với nhau một cách thân thiết. Lứa đôi gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, say đắm, hương gắn kết với hoa để khoe sắc trên đồng nội “xanh rì”.
Những cánh yến anh trên bầu trời đang chao liệng để gửi gắm lời yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về. Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để nét vẽ của mình in sâu trong tâm trí người thưởng thức. Thiên đường, bữa tiệc của thiên nhiên có ngay trong cuộc sống này, có ngay trong tầm tay với của con người. Đoạn thơ như một bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lai và đưa ai ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Biện pháp liệt kê khiến những vẻ đẹp của mùa xuân được phơi bày một cách sinh động và chân thực.
Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non đến thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời đến tham dự. Nhà thơ đã “say đắm với tình yêu, hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả các giác quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”. Đôi mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, một sức trẻ khỏe khoắn, một mùa xuân phơi phới làm mê đắm lòng người.
Nhà thơ có ước muốn níu giữ tất cả vị “ngon” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang trong thời kì hương sắc nhất. Nhưng ngay lúc thi sĩ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”
Câu thơ được thi nhân ngắt làm hai, thể hiện niềm vui một cách không trọn vẹn. Nhà thơ đã nhận ra rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Chính dự cảm mơ hồ về sự mong manh và ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống tận hưởng một cách vội vàng. Từ trạng thái vui tươi phấn chấn đầy yêu đời “tôi sung sướng” bỗng xuất hiện dấu chấm, như một điềm báo trước một sự hụt hẫng lo lắng phía sau. Dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ như bị chẻ đôi, một bên là niềm vui sướng hân hoan một bên là vực thẳm của sự hoài nghi, lo âu.
Ta có thể thấy niềm vui như chùng xuống, khựng lại và không trọn vẹn. Bởi, Xuân Diệu phát hiện rằng điều sung sướng mà ông đang tận hưởng ấy ngắn ngủi biết bao, mong manh biết bao. Thời gian chảy trôi tuyến tính một đi không trở lại. Trước sự chảy trôi của thời gian, có được bao nhiêu lâu để đắm chìm hân hoan cho giây phút hiện tại. Chính vì dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đó đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Dù bất lực trước dòng chảy thời gian, trước quy luật của thiên nhiên nhưng Xuân Diệu không bi quan về cuộc sống mà ông đã tìm đến một cách giải quyết tuyệt vời. Đó chính là đừng tiếc nuối cho tương lai mà hãy tận hưởng sống hết mình cho giây phút hiện tại. Bởi tương lai chắc chắn sẽ đến, thời gian chắc chắn sẽ đến, mùa xuân sẽ qua cũng như mùa hạ sẽ đến, con người vốn không thể thay đổi được những điều hiển nhiên ấy. Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.
Bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện lòng ham sống bồng bột và mãnh liệt của cái “tôi” Xuân Diệu rất hiện đại cùng với một quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc. Xuân Diệu đã thể hiện trong bài thơ cái “tôi” của thời đại thơ mới về một ý thức ráo riết về giá trị đời sống cá nhân, một quan niệm táo bạo đầy tính cách mạng trước những quan niệm cũ kĩ vốn cản trở việc giải phóng con người, một niềm thiết tha với cuộc sống, niềm vui trần thế và một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế cuồng nhiệt, tích cực.
Trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Ông đã hình thức nghệ thuật rất điêu luyện, sự kết hợp nhuần nhị giữa cảm xúc mong manh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Sống mạnh mẽ, tích cực dám khẳng định bản thân là lẽ sống cao đẹp, thể hiện ý thức trách nhiệm và sự trân trọng từng phút giây của con người với sự sống.
Tuy nhiên, có không ít người hiểu quan niệm này một cách lệch lạc, họ sống nông nổi, sống nhanh, sống vội, bất chấp, khẳng định mình một cách tiêu cực. Vì vậy, cần xác định quan điểm sống lành mạnh biết cống hiến và hưởng thụ, biết sống cho hiện tại và tương lai, trân trọng từng phút giây quý giá của cuộc sống.
Qua 13 câu đầu bài Vội vàng, chúng ta nhận ra rằng Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thiên đường không đâu xa mà chính là cuộc sống giữa thiên nhiên tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có.
Đến với “Vội vàng”, Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Hãy tranh thủ lúc còn trẻ để được hưởng đầy đủ nhất. Ông không quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời của ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng tận hưởng. Tập “Thơ thơ” nói chung hay “Vội vàng” nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm cho người đọc, giá trị của nó vẫn mãi lưu truyền đến hiện tại và mãi mãi. Người ta sẽ luôn nhớ đến thi sĩ Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình”, ông đã để lại cho đời những áng văn hay!
2. Bài văn phân tích 13 câu đầu Vội vàng mẫu số 2
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Đây cũng là ba chủ đề chính trong sự nghiệp thơ ca của ông trước cách mạng tháng Tám. Với mười ba câu thơ đầu tiên trong bài thơ “Vội vàng“, thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống đến mãnh liệt.
Có thể nói trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo, và đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân. Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương. Khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người.
Điều này vừa hợp lí bởi nhà thơ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh) nhưng cũng vừa vô lí và không thể thực hiện được bởi con người làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là mỏng manh, ngắn ngủi, không tồn tại được mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được những ước muốn đó khi có phép nhiệm màu.
Đồng thời khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông. Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.
Ý thơ như trào dâng theo cảm xúc ở thể ngũ ngôn đã lột tả được ước muốn chân thành mà táo tạo của “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Đặc biệt, sự xuất hiện của chủ thể trữ tình, của cái tôi cá nhân đã thoát ra khỏi những hệ thống các quy ước, ràng buộc của văn học trung đại. Nhân vật trữ tình xưng “tôi” một cách đầy tự tin và quyết đoán.
Cái tôi cá nhân ấy không ẩn sau cái “ta” chung của cộng đồng, dân tộc mà nó đứng riêng lẻ đầy khí chất bởi với Xuân Diệu, cái tôi là lẽ sống:
“Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bạn bè nối cùng ta”.
(Hy Mã Lạp Sơn)
Sự lặp lại về cấu trúc và hình thức ở các câu thơ 1 – 3, câu thơ 2 – 4 cùng tiết tấu câu thơ nhanh, dồn dập đã thêm một lần nữa tô đậm ước muốn đoạt quyền tạo hóa của Xuân Diệu.
Nếu các nhà thơ trung đại gửi lòng mình vào chốn bồng lai tiên cảnh thì Xuân Diệu lại phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất có ngay trong tầm tay với của con người:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Những dòng thơ tiếp theo là sự lí giải nguyên nhân vì sao nhà thơ lại muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ về mùa xuân đã nhận ra vẻ đẹp của cuộc đời, thiên nhiên với những thực đơn phong phú. Mùa xuân của ong bướm, cỏ cây, hoa lá, mùa xuân của tạo vật tràn trề nhựa sống. Mùa xuân được phát hiện bằng vẻ đẹp của tháng giêng với những gì tinh túy nhất.
Có thể nói đó là bức tranh tuyệt đẹp, là khu vườn tình ái đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới có thể nhìn thấy được “tuần tháng mật” của ong bướm, thấy được sắc màu xanh non của cành tơ với những chiếc lá đang “phơ phất”. Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi nguyên ấy như được trưng bày ra trước mắt nhà thơ và bạn đọc qua điệp từ “này đây”. Chỉ có người thi sĩ ấy mới thấy được những bông hoa của đồng nội và nghe được khúc tình si của chim yến, chim anh. Và cũng chỉ có ông mới cảm nhận được: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Mùa xuân đẹp và quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Tác giả sử dụng từ “ngon” để thể hiện một khát khao, một cảm nhận riêng đến lạ lùng mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nà của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có đôi, gắn bó, quấn quýt với nhau một cách thân thiết. Lứa đôi gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, say đắm, hương gắn kết với hoa để khoe sắc trên đồng nội “xanh rì”. Những cánh yến anh trên bầu trời đang chao liệng để gửi gắm lời yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về.
Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để nét vẽ của mình in sâu trong tâm trí người thưởng thức. Thiên đường, bữa tiệc của thiên nhiên có ngay trong cuộc sống này, có ngay trong tầm tay với của con người. Đoạn thơ như một bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lai và đưa ai ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Biện pháp liệt kê khiến những vẻ đẹp của mùa xuân được phơi bày một cách sinh động và chân thực.
Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non đến thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời đến tham dự. Nhà thơ đã “say đắm với tình yêu, hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả các giác quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”.
Đôi mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, một sức trẻ khỏe khoắn, một mùa xuân phơi phới làm mê đắm lòng người. Nhà thơ có ước muốn níu giữ tất cả vị “ngon” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang trong thời kì hương sắc nhất. Xuân Diệu đang chìm đắm trong thế giới diệu kì của nhân gian, vũ trụ thì chợt bừng tỉnh:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả đặt mình trong hai trạng thái nửa “sung sướng” mãn nguyện nửa “vội vàng”, xót xa. Dấu chấm ngăn cách giữa dòng thơ tạo nên hai câu đặc biệt. Thi sĩ nhận ra vẻ đẹp vô giá của cuộc đời nhưng ngay lập tức cũng biết rằng thời gian là không chờ đợi. Dấu chấm làm mạch cảm xúc bị đứt đoạn, Xuân Diệu đang ngây ngất trong thiên đường mùa xuân thì chợt nhận ra cuộc đời con người rất ngắn ngủi và mỏng manh.
Đang ở trong khu vườn trần thế đầy tình tứ mà Xuân Diệu đã lo sợ cuống cuồng những vẻ đẹp sẽ tan biến, mất đi trong hư vô mà không đọng lại chút dư âm. Nhà thơ muốn chạy đua với thời gian, muốn hòa tan mình vào thiên nhiên để trường tồn cùng thời gian.
Mùa xuân đã trở thành người bạn tri âm của Xuân Diệu, luôn được Xuân Diệu chào đón bằng tình yêu nồng nhiệt trong bất cứ hoàn cảnh nào:
“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa
Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng”.
(Xuân không mùa)
Đây là mùa để ấp ủ, gieo mầm gặp gỡ, giao hòa của vạn vật và là nơi nảy nở tình yêu của mỗi cá thể. Ông quan niệm rằng: “Tình không tuổi và xuân không ngày tháng” (Xuân không mùa) nhưng cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, hoa nở rồi cũng tàn theo quy luật của tạo hóa. Dường như biết trước được quy luật khắc nghiệt ấy nên Xuân Diệu “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Nhà thơ đã nhận ra được bước đi vô tình mà tàn nhẫn của thời gian nên ông không chờ một điều gì đó qua đi mới cảm thấy hối tiếc, ông không đợi mùa xuân đi hết chặng đường của mình rồi mới nhớ thương, tiếc nuối.
Ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân qua mười ba câu đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã khẳng định rằng không nơi nào đẹp hơn khu vườn trần thế ở mặt đất. Những vần thơ của ông là “nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Được sống là niềm hạnh phúc, khát khao lớn nhất của mỗi chúng ta, vì vậy, chúng ta cần biết trân trọng sự sống và có thái độ sống tích cực.
3. Bài phân tích Vội vàng khổ 1 mẫu số 3:
Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới thời bấy giờ, với hồn thơ đại diện cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu có sự tinh tế, gợi cảm, độc đáo từ chất liệu đến bút pháp thi ca. “Vội vàng” là một trong những bài thơ hay nhất mà nhà thơ dành tặng cho thế gian này. Bài thơ là một nguồn cảm xúc trào dâng, là tuyên ngôn sống của một con người khao khát yêu đời. Cùng phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng để thấy rõ hơn tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của tác giả với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.
Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận ngay được luồng khí vui tươi, sôi nổi. Ở đây, tác giả như muốn đoạt quyền tạo hóa.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Sử dụng điệp ngữ “tôi muốn” cùng với thể thơ ngũ ngôn có tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện cái ước muốn mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt nắng để “màu đừng nhạt mất”, buộc gió để “hương đừng bay đi”. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời xuân của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp mãi tỏa sắc lên hương. Có thể nói đây là ước muốn phi lý của một tâm hồn yêu đời với thái độ trân trọng, nâng niu và giữ gìn.
Những câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ. Đồng thời thể hiện khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của nhà thơ.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Như lời mời gọi, điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần ở đoạn thơ trên, vừa nói lên sự giàu có, phong phú của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời trần thế ngay trong lúc này, gần gũi ngay trước mắt chứ không phải xa xôi, không phải ở tương lai hay quá khứ, lại càng không phải ở kiếp khác.
Điệp từ “của” mang tính chất kết nối khiến câu thơ trở lên mới lạ hơn. Sau từ “của” bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế được thể hiện thật rõ nét, khu vườn xuân cũng là khu vườn tình yêu ngập tràn ái ân hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng trao gửi sắc hương, khiến lòng người ngất ngây.
Nhà thơ luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương cũng trở thành mùa vui của bướm ong dập dìu, cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành khúc tình si, say đắm lòng người và ánh sáng xuân lướt qua hàng mi diễm lệ của người đẹp kiều diễm.
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa
Với tâm hồn bay bổng và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã tạo ra sự bất ngờ đầy thú vị bởi liên tưởng hết sức độc đáo. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi lên hình tượng mặt trời hoặc cũng có thể là một vị thần mang niềm vui ban tặng cho thế gian vào mỗi sớm ban mai, đánh thức mọi người bằng những niềm vui để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được ngắm nhìn ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hạnh phúc ngập tràn.
Tiếp nối niềm hân hoan vui sướng đó, thi sĩ đã viết tiếp câu thơ đầy sự tinh tế:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Đây là câu thơ mới mẻ, hiện đại, thể hiện được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói Xuân Diệu là người đầu tiên “tỏ tình” với thiên nhiên. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi” căng tràn tươi trẻ và quyến rũ. Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, nhà thơ đã huy động mọi giác quan: từ thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác để tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc đời này. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vô hình, được tác giả so sánh với cặp môi gần đầy táo bạo đã trở nên trẻ trung hữu hình. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Câu thơ bị ngắt làm hai, thể hiện niềm vui không trọn vẹn. Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Đang thỏa thuê trong bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” sau đó ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng.
Hai câu thơ như cánh cửa khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say trong vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu vừa có linh cảm bất an, lo lắng của nhà thơ. Lo lắng vì thời gian qua mau, tuổi trẻ đã đi thì sẽ không trở lại. Qua đây, phải nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian, không gian.
Qua phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng, chúng ta nhận ra rằng Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thiên đường không đâu xa mà chính là cuộc sống giữa thiên nhiên tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.
4. Bài văn phân tích Vội vàng 13 câu đầu mẫu số 4
Đến với Xuân Diệu – nhà thơ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự cần cù của xứ Nghệ.
Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong
Ông đồ nghề lấy cô hàng nước mắm.
Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ cần cù, kiên nhẫn, lao động và sáng tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả. Cảm nhận 13 câu thơ đầu Vội vàng, chúng ta sẽ thấy rõ được sự táo bạo và đầy lãng mạn của nhà thơ. Bởi vậy, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình.”
Tôi muốn tắt nắng đi
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
“Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc của tác giả. Ngay từ đầu ta bắt gặp một thái độ sống:
Tôi muốn tắt nắng đi
…
Cho hương đừng bay xa
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên, một ước muốn không thể, vô cùng táo bạo. Tôi muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là những điều vô cùng kì dị, mà vô cùng độc đáo mà chỉ có mình Xuân Diệu mới nghĩ ra.
Xuân Diệu muốn tắt nắng, muốn buộc gió để giữ lại những cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương, của cả thời gian. Tác giả chỉ muốn giữ lại thời gian cho riêng mình, để nhà thơ có thể ngắm nhìn và tận hưởng những điều đấy. Nhà thơ đã đẩy cái tôi chủ quan của mình để làm thay đổi được quy luật của tự nhiên. Muốn níu giữ thời gian để ngưng động cái không gian, ý tưởng đó táo bạo nhưng vô cùng lãng mạn.
Điệp ngữ “tôi muốn” làm nổi bật cái khát vọng mãnh liệt của cuộc sống bởi thiên nhiên mùa xuân đầy tươi đẹp và đầy sức sống.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phấp phới.
Cả không gian như được tô điểm một màu xanh non tươi mơn mởn, màu xanh của đồng nội, màu xanh của lá non, màu xanh của cành to phấp phới, kết hợp hài hòa làm cho bức tranh thiên nhiên dạt dào sức sống, sinh động, có hồn và trở nên tươi mới hơn nhờ vào tiếng hót của loài chim yến anh.
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Tiếng chim cất lên tưng bừng rộn rã tạo nên một khúc nhạc tình si trong không gian tràn ngập ánh sáng. Mùa xuân tưng bừng, mùa xuân rộn rã đã dần đến cho nhà thơ một niềm vui, niềm ham muốn nắm bắt và muốn hưởng thụ mỗi sáng.
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Cảm nhận của nhà thơ cũng thật độc đáo khi đến với con người. Xưa nay người ta chỉ nói mùa xuân đẹp, mùa xuân tươi và tràn đầy sức sống nhưng chưa ai nói “mùa xuân ngon”. Nhà thơ Xuân Diệu, với ông mùa xuân không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh để so sánh thật cụ thể “cặp môi gần”. Điều đó thể hiện sự nồng nàn trần thế của con người. Những cặp môi gần ấy, nó đánh dấu vào thời gian, xuân đã trở thành một quả nhân mà người nghị sĩ là tình nhân.
Chính ý nghĩ đó đã trẻ hóa thế giới già nua, cũ kĩ, làm cho nó trở nên thật mới mẻ. Bức tranh thi sĩ vẽ ra như một thiên đường đầy mật ngọt, nó không tồn tại, không xa rời, không mờ ảo mà nó hiển hiện với hơi thở với nhịp điệu sống ngay giữa cuộc đời trần thế để cho con người mở lòng mình ra mà tận hưởng.
Với Xuân Diệu cái gì cũng mới lạ và bằng cặp mắt xanh non của ông của cái tôi cá nhân, Xuân Diệu đã phát hiện ra thế giới này đẹp nhất vẫn là vì có con người. Cuộc đời đẹp nhất là vào lúc tuổi xuân. Và con người chỉ tận hưởng được điều ấy lúc còn trẻ. Song tuổi trẻ sẽ tàn phai theo thời gian vì thế mà ông phải sống vội vàng và gấp gáp.
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Đến đây ta đã hiểu được vì sao mà thi sĩ muốn can dự vào những quy luật muôn đời của tạo hóa để không phải là một ước muốn ngông cuồng nông nổi. Mà là khát vọng cháy bỏng của thi nhân, ước muốn bất tử hóa của cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vị của cuộc sống.
Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có. Đến với “Vội vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Hãy tranh thủ lúc còn trẻ để được hưởng đầy đủ nhất. Ông không quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời của ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng tận hưởng. Đối với mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện nay không phải ai cũng biết sống có ước mơ, có hoài bão, đôi khi chỉ là sống để tồn tại, sống lạc loài. Đã sống là phải biết sống có mục đích, có ước mơ, hoài bão. Khi đó ta mới nhận ra cuộc sống này ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
5. Bài văn phân tích khổ thơ đầu Vội vàng mẫu số 5
Mỗi nhà thơ đến với văn đàn đều mang một dấu ấn riêng, mang một cặp mắt mới để lưu dấu trong lòng bạn đọc, nếu đôi mắt thơ của Huy Cận mang nét buồn không gian, thì đôi mắt thơ Xuân Diệu lại là cặp mắt xanh non biếc rờn để bao luyến cảnh sắc nhân gian, để đem trái tim và bầu máu nóng của mình mang đến sức sống cho nhân thế. Khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng đã mang đậm nét hồn ấy.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Tưởng như hồn thơ dạt dào và tươi trẻ của Xuân Diệu đã biến câu thơ thành những dòng nhựa sống chảy tràn từng câu chữ, nhưng không chỉ vậy, Xuân Diệu còn muốn đoạt quyền của tạo hóa để biến trần gian thành một bữa tiệc thắm sắc đượm hương. Ước muốn mãnh liệt này xuất phát từ cái tôi yêu trần thế nồng nàn tha thiết, muốn mang cả bầu thơ túi rượu để được nâng chén cùng thiên nhiên.
Với Xuân Diệu, nếu nhân gian chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa, và những hương sắc nhạt phai thì đó không còn là thế giới mà thi nhân hằng ao ước, hằng ham muốn đem bầu máu nóng và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa.
Nếu như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt ham muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh sắc trần gian thì đến những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa đến cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của ong bướm này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi hồng
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ đã hoài xuân”.
Có thể thấy dưới “cặp mắt xanh non và biếc rờn”, vườn trần gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là sự góp nhặt của những cảnh vật đơn sơ, nhạt vị, mà mỗi ngọn cây lá cỏ, mỗi lời ca điệu hồn đều như uống phải ánh mắt si tình của thi nhân nên cũng lên hương đầy mặn nồng, biến vườn trần thành một vườn xuân. Nào là “tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si…” tất cả đan bện, hòa quyện gắn kết để bức tranh của Xuân Diệu dậy sắc, lên hương.
Bức tranh xuân vừa mang màu tươi mới, trẻ trung, lại vừa có những thanh âm đầy trong trẻo, ngọt ngào. Đặc biệt là so sánh táo bạo về “tháng Giêng như một cặp môi gần” là một cách tân táo bạo và đầy mới mẻ của thi nhân. Lấy cái hữu hình để so sánh với cái vô hình, lấy cái gợi về cảm giác để gợi về thời gian, nhất là lấy ái ân, tình tự để gọi về mùa xuân. Hóa ra trong mắt chàng thi sĩ bao luyến nhân gian bằng tình yêu ấy, tất cả cảnh vật nơi nơi đều là tình yêu, đều là những gì yêu kiều duyên dáng, đều mang mật ngọt của tình tự.
Có một điều làm nên nét riêng này ở Xuân Diệu đó là, trước Xuân Diệu các nhà thơ thường chỉ thấy cuộc đời này mang đầy tính chất buồn thảm thê lương. Bà Huyện Thanh Quan ví nó như “cuộc hí trường” biết mấy đau thương, còn Nguyễn Du gọi nó là những “cuộc bể dâu”.
Gần Xuân Diệu hơn, Thế Lữ chán ghét thực tại tầm thường mà tìm về với chốn thiên thai hạ giới, để say sưa trong lời ca điệu nhạc, trong chốn bồng lai. Nhưng Xuân Diệu ở ngay trong đoạn thơ này, với những dòng cảm xúc nóng hổi bao luyến nhân gian, rồi phác họa chúng lên tràng viết, đã cho ta thấy cuộc đời vẫn lộng lẫy, tươi vui, và đáng sống, và nó như một bữa tiệc trần gian để con người say sưa trong men say của tình tự. Cho nên Hoài Thanh với đánh giá rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”.
Xuân Diệu tưởng như chỉ là một chàng thi sĩ nhạy cảm tinh tế, đem theo hồn thơ của mình để mang phấn thông của tình yêu đến muôn nơi, để cùng nhau say sưa trong bầu thơ của thi nhân, để con người nhận ra rằng cuộc đời này đáng sống, hãy biết cách trân trọng cuộc sống trần thế.
>>> Xem thêm tổng hợp các đề văn về bài thơ Vội vàng để chuẩn bị tốt cho các bài văn sắp tới về tác phẩm Vội vàng
6. Bài văn phân tích khổ 1 Vội vàng mẫu số 6
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, ông hoàng của thơ tình yêu. Trong thơ Xuân Diệu ta bắt gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, ham sống tới cuồng nhiệt và cũng chính ông là người mang tới quan niệm nhân sinh mới mẻ và những cách tân nghệ thuật độc đáo. Nhắc tới Xuân Diệu ta nghĩ ngay tới nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một cái tôi khao khát giao cảm với cuộc đời. Trong suốt cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật của nước nhà, thi sĩ đã để lại cho đời vô số những bài thơ hay, giàu giá trị, trong đó “Vội vàng” là một thi phẩm đặc sắc được rút ra từ tập Thơ Thơ xuất bản năm 1938. Đặc biệt khổ thơ đầu với những lời thơ ngắn gọn nhưng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai mờ.
Chỉ với mười ba câu thơ nhưng đã phần nào đưa độc giả đi khám phá hồn thơ chân thật của Xuân Diệu. Ở đó ta thấy tâm hồn của một chàng trai trẻ ham sống, nặng tình với cuộc đời và mong muốn làm những điều tưởng chừng như phi lý để níu giữ lại những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tình yêu và tuổi trẻ. Nó như một điểm xuất phát để từ đây nhà thơ trình bày những quan niệm táo bạo, mới lạ về thời gian và triết lý sống vội vàng ở những phần sau.
Khổ thơ đầu cho ta thấy một tình yêu cuộc sống tới mãnh liệt của nhân vật trữ tình:
“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi”
Ở đây nhân vật trữ tình muốn thực hiện những hoạt động kì lạ, muốn “tắt nắng, buộc gió” để “màu đừng nhạt” và “hương đừng bay”. Có lẽ xuất phát từ một con người yêu tuổi trẻ, mê cuộc sống và cũng ý thức được rằng những thứ đó gắn liền với thời gian, mà thời gian trôi đi theo quy luật của tạo hóa sẽ không bao giờ trở lại được. Vì thế nhà thơ khát khao thực hiện những hành động có vẻ ngông cuồng, phi lý đó là tắt nắng, buộc gió để giữ lại những gì tươi đẹp nhất của hiện tại, giữ lại cái ấm áp của mùa xuân, giữ lại hương thơm nồng nàn của cuộc đời.
Nghĩa là Xuân Diệu muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn chống lại những quy luật vốn có của tự nhiên. Và điều đó là hoàn toàn không thể. Mong muốn ấy như được đẩy lên tới cao trào khi điệp từ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần kết hợp với các động từ mạnh khẳng định khát vọng tới cháy bỏng của nhà thơ rằng tôi muốn giữ được cái đẹp, muốn giữ sức tươi trẻ của ngày hôm nay. Có thể nói đây không chỉ là ước mơ của riêng mình Xuân Diệu mà còn là của chung nhân loại nhưng khát vọng tới da diết, tới cuồng say và cách mở đầu mới lạ như thế này thì chỉ Xuân Diệu mới có.
Vốn có trái tim đa cảm, tinh tế, Xuân Diệu thấy cuộc đời đẹp như một bức tranh mùa xuân đang trải ra trước mắt:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Điệp ngữ “Này đây” xuất hiện liên tục trong các câu thơ, kết hợp với cách đọc nhanh, khẩn trương đưa ta tới một thế giới mùa xuân tuyệt đẹp với những hương sắc ngọt ngào nhất của tạo hóa. Ong bướm ngày đầu xuân dập dìu say trong mật ngọt của hoa, một cách diễn tả hoàn toàn mới mẻ của thi sĩ. “Tuần tháng mật” chính là cách nói của người phương Tây về những ngày tháng đầu tiên của các cặp uyên ương mới cưới, hạnh phúc say đắm trong tuần trăng mật.
Xuân Diệu là một trí thức Tây học nên ông luôn có những cái nhìn mới mẻ, sáng tạo. Không chỉ có ong bướm say mật ngọt mà hoa cũng trở nên xanh hơn, xanh rì trong những cánh đồng nội. Và kìa cành lá không còn cằn cỗi mà đã thay mình thành những cành tơ non phơ phất. Không gian, hình ảnh tràn đầy nhựa sống mà ở đó mọi vật đều có đôi có cặp.
Mặt đất trở nên hấp dẫn hơn, ngọt ngào hơn và thi sĩ có lẽ đang dạo chơi tung tăng, hân hoan trong chính không gian bao la như thiên đàng tuyệt diệu ấy. Chỉ có tâm hồn yêu cuộc sống cuồng nhiệt như Xuân Diệu mới có thể diễn tả được tất cả điều huyền diệu ấy, mới thấy được niềm lạc quan của mỗi sáng sớm khi thần vui đến gõ cửa mọi nhà.
Cũng chỉ ở Xuân Diệu mới có cách so sánh độc đáo, mới lạ nhất, ông ví “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Thời gian được nhà thơ lựa chọn chính là những ngày đầu của tháng Giêng, của mùa xuân, của năm mới vì thế tất cả cái tươi non, cái sôi nổi trẻ trung nhất của mùa xuân và tuổi trẻ được gói trọn trong một chữ “ngon” thậm chí “ngon như một cặp môi gần”. Ở đây ta dễ dàng hình dung ra đôi môi ấy như của người thiếu nữ đang độ xuân thì với tình yêu phơi phới, trọn vẹn. Hay như cặp môi của những đôi lứa đang yêu nhau.
Và rồi khi đang mải miết đắm mình trong hương vị ngọt ngào ấy tác giả chợt giật mình nhận ra thời gian đang từng lúc từng giờ trôi đi một cách nhanh chóng nên:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Nghĩa là thi sĩ ý thức được sự vô tình của thời gian và tạo hóa. Ngay giờ phút này đây hãy tỉnh táo vội vàng tận hưởng cuộc sống tươi đẹp bởi nó là sự một đi không trở lại. Ta cũng thấy điểm lạ trong hình thức trình bày của câu thơ trên, đó là dấu chấm được đặt giữa dòng thơ như bước chân đang hân hoan dạo bước trong một khu vườn đầy hương sắc bỗng khựng lại trước ranh giới mong manh, không thể vượt qua được.
Trước bao lo âu bởi sự hữu hạn của đời người và cái vô hạn của cuộc đời. Chính vì thế chàng Xuân Diệu nuối tiếc xuân ngay khi mùa xuân vừa mới tới. Những câu thơ diễn tả tâm trạng vừa sung sướng vừa vội vàng để hưởng thụ cuộc đời. Và cũng từ đây mở ra những dòng tâm trạng mới vội vàng hơn, thiết tha hơn trong những câu thơ tiếp theo.
Khổ thơ đầu đã bộc lộ một tâm hồn yêu đời, ham sống đến khát khao mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Với bút pháp miêu tả, liệt kê Xuân Diệu đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh tràn đầy nhựa sống và sự lung linh của sắc màu vạn vật, đưa người đọc cùng dạo chơi với thi sĩ, cùng tận hưởng những khoảnh khắc đẹp nhất của tuổi trẻ rồi giục dã con người hãy sống nhanh, sống sao cho hết mình, vì chỉ có sống vội vàng ta mới không làm hoang phí thời gian và tuổi thanh xuân. Để có được một thông điệp mới mẻ này chứng tỏ người thi sĩ phải thật sự tinh tế, nhạy cảm với bước đi của thời gian và Xuân Diệu đã có thể làm nên điều ấy.
(Nguồn: https://sotayvanhoc.com/)
Tổng kết phân tích Vội vàng khổ 1
Trên đây là những gợi ý cách làm chi tiết và một số bài văn mẫu được đánh giá cao với nội dung phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ Vội vàng do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn gửi đến các em. Hi vọng bài viết đã phần nào giúp các em nắm được cách làm, qua đó nâng cao kĩ năng làm văn trong quá trình học và làm bài tập môn Văn.