1. Lập dàn ý phân tích 18 câu đầu Trao duyên của Nguyễn Du hay chọn lọc:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên.
– Giới thiệu 18 câu thơ đầu của đoạn văn: Đó là lời yêu cầu, van xin Thúy Vân thay mình cưới Kim Trọng.
1.2. Thân bài:
a. Lời trăn trối của Thúy Kiều (2 câu đầu):
– Lời nói
+ “Cậy”: Đồng nghĩa với “nhờ” nhưng “cậy” còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, trông đợi, tin tưởng vào sự giúp đỡ đó.
+ “Chấp nhận”: Đồng nghĩa với “chấp nhận” nhưng “chấp nhận” nó còn hàm chứa sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc không đồng ý, còn “chấp nhận” là bắt buộc phải chấp nhận, không chấp nhận. nhận được. bị từ chối vì đó là tình trạng sức ép, áp lực của người được ủy thác.
– Hành động: “cậy”
+ Là hành động của cấp dưới đối với cấp trên, nhưng ở đây Kiều là tôi nói tôi.
+ Đây là hành động không bình thường nhưng hoàn toàn bình thường trong tình huống này vì hành động của Kiều là sự hi sinh cao cả của Thúy Vân. Nhân đây, việc Thúy Kiều đệm lòng thương hại là hoàn toàn hợp lý, tôi xin phép Thúy Vân
=> Hành động khác thường trong quan hệ từ ngữ đặc biệt nhấn mạnh hoàn cảnh éo le của Thúy Kiều.
– Hoàn cảnh đặc biệt của Kiều:
+ Thúy Kiều phải tha thiết cầu xin Thúy Vân thay mình cưới Kim Trọng. Kiều biết việc hỏi Vân có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này của Thúy Vân và Kim Trọng nếu không có tình yêu.
Tâm trạng của Kiều đau khổ, tuyệt vọng vì người ta có thể trao kỉ niệm, vật chất cho nhau nhưng không ai đi trao tình yêu của mình.
b. Lập luận trao duyên của Kiều (10 câu tiếp):
*. Kiều bộc lộ hoàn cảnh của mình.
– Thành ngữ “đứt gánh tình”: ám chỉ mối tình dang dở của Kiều, nàng bị dồn đến bước đường cùng không lối thoát giữa một bên là chữ hiếu và một bên là chữ tình nên trao đi cái tình là điều duy nhất. sự lựa chọn của cô ấy.
– Từ “đứt”: là đầu hàng, nhiệm vụ, nhiệm vụ. Kiều trao toàn bộ trách nhiệm cho Vân để trả nghĩa cho Kim Trọng.
=> Thể hiện tâm trạng đau khổ, đáng thương của Kiều
=> Đó là sự thuyết phục không mấy sáng suốt của Kiều về tình yêu và trách nhiệm của người em tình địch đối với Thúy Vân.
*. Kiều kể về mối tình với chàng Kim
– Hình ảnh “Quạt ước, chén thề”: Gợi kỉ niệm đẹp đẽ, đầm ấm, hạnh phúc của Kim và Kiều với những lời thề nguyền, đính ước, thủy chung.
– “Vội vàng”: Tai họa bất ngờ ập đến, Kiều bị đặt vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, phải lựa chọn giữa tình yêu và chữ hiếu. Kiều đã chọn hy sinh tình yêu.
=> Mối tình Kim – Kiều là một tình yêu đẹp nhưng mong manh, dễ tan vỡ
=> Vừa bộc lộ tâm trạng đau khổ, đáng thương của Kiều, vừa cảm động khiến Vân chấp nhận.
*. Kiều nhắc đến tuổi trẻ mủi lòng và cái chết
– Hình ảnh ẩn dụ “Ngày xuân”: Tuổi trẻ
=> Vân còn trẻ và còn cả tương lai phía trước
– “Tình máu mủ”: Tình máu mủ giữa những người cùng huyết thống
=> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
– Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “Nụ cười chín cả”: nói về cái chết tự nguyện của Kiều
=> Kiều tìm đến cái chết để bày tỏ tình cảm thật của mình khi Vân nhận lời
⇒ Lập luận của Kiều vừa kiên quyết vừa hợp tình hợp lý khiến Vân không thể từ chối
Kiều là một cô gái thông minh, sắc sảo nhưng cũng tình cảm, đa cảm.
c. Kiều trao kỉ niệm (tiếp 6 câu):
– Kỷ vật: Gương, mây
→ Vật kỷ niệm giản dị mà lãng mạn, gợi một quá khứ hạnh phúc.
– Từ “giữ – chia sẻ – tin tức”
+ “Tài sản chung” là của Kim, Kiều cũng là của Vân
+ “Báu vật” là những gắn bó gợi lên mối tình thiêng liêng Kim – Kiều: hương thơm, âm nhạc
→ Thể hiện sự căng thẳng trong tâm trạng của Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể trao cho Vân mối tình dang dở chứ không thể trao hết mối tình say đắm xưa giữa nàng và Kim Trọng.
d. Nghệ thuật:
– Sử dụng từ ngữ, chất liệu tinh tế
– Sử dụng thành ngữ dân gian và ẩn dụ hình ảnh
– Sử dụng thủ pháp thuật toán liệt kê, ẩn dụ.
– Giọng điệu mềm mại, nhẹ nhàng, tình cảm.
1.3. Kết bài:
Khẳng định giá trị của 18 câu thơ đầu cho đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.
2. Bài phân tích 18 câu đầu Trao duyên của Nguyễn Du hay chọn lọc:
Cho đến nay “trao duyên” thường mang sắc thái tình cảm; là dấu hiệu của niềm vui; Hạnh phúc lứa đôi dành cho nhau nhưng trong văn học cổ đại lại có cảnh “hoán đổi số phận” đáng buồn và tủi nhục. Đó là cảnh ân ái của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Bằng ngòi bút đặc sắc, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh đầy nước mắt.
Đoạn trích “Trao duyên” trải dài từ câu 723 – 756 của bài thơ nói về cuộc đời gian khó; đoạn đời; Cuộc phiêu lưu, phiêu bạt của người con gái tài sắc vẹn toàn Thuý Kiều. Qua phân tích 18 câu thơ đầu của đoạn trích Trao Duyên, ta thấy đoạn thơ như tiếng lòng ngọt ngào, da diết của Thúy Kiều khi nàng gửi lại tấm lòng chân thành của mình nhờ người em gái Thúy Vân đi theo Kim Trọng.
Giữa hàng vạn người trong cõi mộng của nhân gian, con người ta may mắn tìm thấy nhau, đồng điệu với nhau. Định mệnh là một mối quan hệ rối ren giữa một người đàn ông và một người phụ nữ đã được phân định rõ ràng, sự ràng buộc của một mối quan hệ có thể dễ dàng chuyển giao. May mà Thúy Kiều đã tỏ ra thận trọng và trân trọng khi gửi lại cho em gái mình là Thúy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều bề trên nhưng khi ngỏ lời gửi gắm tình cảm với em gái lại dùng những lời lẽ đầy kính trọng. “Trust” thể hiện mức độ tin tưởng, kỳ vọng chỉ có Thụy Vân mới giúp được mình; từ “chịu” xuất hiện ở câu cuối vừa mang nghĩa vấn đề vừa mang nghĩa nghĩa vụ. Toàn bộ câu thơ với những khoảng ngắt và những từ ngữ quan trọng đã thu hút sự chú ý của Thúy Vân về câu chuyện của mình. Khi đã hiểu lòng mình, Thúy Kiều tha thiết:
“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều bảo Thúy Vân ngồi dậy để nàng “nằm” rồi mới “thưa em”. Có một sự hấp dẫn tiềm ẩn ở đây, như chúng ta thấy. Thúy Kiều là em gái Thúy Vân, góp ý cho vai nhìn Thúy Kiều đằng sau gông cùm sao phải cung kính, kính trọng với Thúy Vân. Điều đặc biệt trong thời gian của tác giả có lẽ phải đặt ở vị trí chính yếu này. Trong hoàn cảnh của mình, hành động của Kiều không phải là vô lý mà hoàn toàn phù hợp. Vì yêu, nàng còn lựa chọn nào khác là nhờ vào chính người chị của mình, nhận được những ân huệ lớn lao từ người chị đồng thời hành động đó cũng nói lên những khó khăn, vất vả của cả người chị và em gái Thúy Kiều. Thúy Kiều khó mở lời thì Thúy Vân mới nói được trước lời thỉnh cầu tha thiết của nàng. Và Thúy Vân từ đây đã ngờ ngợ rằng mình đã hiểu ra câu chuyện quan trọng mà người chị sắp đề cập.
Khi Thúy Vân hiểu ra, Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Thì ra câu chuyện Kiều dựa dẫm là mong nàng thay mình cưới Kim Trọng. Tại sao nó lại là một câu chuyện quan trọng như vậy? Bởi vì đó là một câu chuyện tình yêu sinh tử; là “gánh tình” – ám chỉ bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của Thúy Kiều trong tình yêu với Kim Trọng, nhưng lúc này nàng đã nhận ra mình phải nương nhờ vào bạn, phải đến với bạn, mong bạn thay mình đền đáp cho xứng đáng. .Kim. Và rằng Thúy Kiều đã buông câu “mặc định” như thể chỉ để cho mình tùy ý quyết định, chữ “mặc định” ở đây là cả sự ruồng bỏ. Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào sự lựa chọn không thể từ chối.
Biết rằng trao mối tình này cho mình là làm khó mình và trong lòng cũng hôn nhiều chông gai, suy nghĩ nên Thúy Kiều đã đưa ra những lý lẽ để thuyết phục mình:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thúy Kiều kể lại rằng giữa mình và Kim Trọng đã có lời thề non hẹn biển. Xưa nay, những lời thề nguyền đặc biệt là lời thề lứa đôi vô cùng giá trị, son sắt, khắc sâu đậm tình đôi bên, mãi mãi cúi đầu trao gửi. Lời thề giống như tâm hồn, nhân phẩm của mỗi người. Lời thề là chất keo gắn kết hai người lại với nhau. Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, vì gia đình gặp biến cố, vì chữ hiếu mà Thúy Kiều phải hi sinh chữ tình, biết đâu nàng đã thực hiện được lời hứa với chàng là bảo vệ cha mẹ và gia đình. Nhưng Kiều không muốn phụ lòng tin của anh, không muốn anh vì mình mà khổ nên đã nhờ người chị tin tưởng tiếp tục lời hứa chăm sóc cho anh. Kiều khéo nói:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Thúy Kiều ngỡ như hiểu được cái thoáng, chới với của mình. Thúy Kiều biết mình do dự vì đó là hạnh phúc của một đời người. Nàng ngơ ngác rằng Thúy Vân còn trẻ, ngày xuân còn dài, thời gian còn nhiều, Kim Trọng là người tốt, sau này còn nhiều cơ hội để vun đắp tình cảm, có lẽ nàng vẫn sợ “đồ thừa” . Vì tình chị em thân thiết và sự hy sinh hiếu thảo của mình, Thúy Vân hãy nhận lời này của Thúy Kiều. Trao duyên cho Thúy Vân, để Thúy Vân và Kim Trọng đi hết quãng đường bình yên, phải chăng Thúy Kiều cũng đã và đang làm tròn phận sự của người chị, tìm cho mình một cuộc sống vợ chồng an lành, hạnh phúc và những điều tốt đẹp trước mắt. biến đi. Lòng chị cả biết lo toan, nhìn thấu mọi việc.
Tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng như khắc sâu vào từng ngóc ngách trong tâm hồn nàng. Trước mối nhân duyên này, lòng Kiều rưng rưng, đau đớn:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Trao người mình yêu, trao lại tình cảm nồng ấm cho mình chăm sóc, điều này như rút hết sức lực, tâm hồn Thúy Kiều. Cô như cái xác không hồn; thấy đời mình vô nghĩa; như đã kết thúc: “thịt thối xương mòn”; “chín khe”. Tình yêu dành cho Thúy Vân vẫn trong veo; Dù ở chín suối ngậm cười nhưng Thúy Kiều vẫn cảm thấy sung sướng, hạnh phúc khi người em đã thay mình hành đạo. Sống cho trọn nghĩa tình, không phụ lòng mong đợi của nàng. Dù cho Thúy Kiều có tỏ ra an ủi nhưng có thể Đằng sau đó là một trái tim đau đớn, tủi nhục, dằn vặt nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối nhân duyên đẹp đẽ của mình.
Khi Thúy Vân đã có chút chạnh lòng, Thúy Kiều trao kỷ vật đính hôn cho nàng và tha thiết dò dẫm:
“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Đây có thể là khoảng thời gian khó khăn nhất đối với Kiều. Bởi những kỷ vật đó là những kỷ niệm, dấu ấn thân thiết, là minh chứng rõ ràng cho tình cảm sâu đậm của Kiều và Trọng. Đó là chiếc nhẫn, chiếc nhẫn mà Trọng trao cho Kiều lần đầu tiên như một lời hứa hẹn; là mảnh mây ghi lời thề non hẹn biển của trai gái cho trăm năm đầu bạc và là chìa khóa của đêm trăng chôn nhạc cho khúc tình ca Kim Kiều; … kỉ niệm như gợi lại mối tình ngọt ngào, hạnh phúc của Kim Trọng và Thúy Kiều. Bạn càng hạnh phúc, bạn càng buồn. Nhịp thơ ngắt quãng như tiếng thở dài ngao ngán xen lẫn tiếc nuối của Kiều khi đưa vào tay những kỷ vật đã thành thói quen gắn bó với mình. Và rồi cũng có một mong ước nhỏ nhoi xuất hiện trong lòng Kiều “Cứ giữ phận này, đây là chung”. Bùa này do Việt kiều tặng Vân, nhưng xin Vân vì những vật này là tài sản chung của chúng ta, xin làm kỷ niệm để tôi chia sẻ kỷ vật này với Vân và Trọng. Tình yêu là định mệnh để đi, nhưng nó không thể kết thúc. Và bản thân Kiều cũng không thể phủ nhận những cảm xúc trái ngược của chính mình, tràn đầy nỗi nhớ và sự thương hại cao cả.
Ngẫm lại quãng thời gian đã qua, Kiều thương mình, cho rằng mình là người “may mắn”, cái chết luôn đau đáu trong ý nghĩ “mất người”. Mỗi lời nói, mỗi hành động của Kiều như ngàn mũi dao cứa vào tim nàng, nước mắt tuôn dài trên mi. Trái tim cô gái 20 tuổi ấy như đang nổi lên một trận cuồng phong đau khổ, hờn dỗi. Thúy Kiều đã hi sinh hạnh phúc riêng tư để làm tròn chữ hiếu, gánh nặng cho gia đình yên ấm, Thúy Kiều đã làm tròn chữ hiếu cũng như nghĩa với người thân.
Phân tích 18 câu thơ đầu của đoạn trích “Trao Duyên” ta thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng ngòi bút điêu luyện, tinh tế, Nguyễn Du đã điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình một cách tài tình, hài hòa để khắc họa, khắc họa những cảm xúc phức tạp, ẩn chứa, giằng xé trong lòng mỗi nhân vật. Thúy Kiều trao tình nhưng không trao tình; Tình cảm của nàng với Kim Trọng vẫn được nàng gìn giữ, nâng niu. Từ đây, Nguyễn Du đã có người bạn cho người đọc thấy một điều đẹp đẽ và nhân văn về tình yêu: Yêu là làm cho người mình yêu hạnh phúc, đã yêu là phải trọn vẹn, thủy chung. Tình yêu đích thực là bất tử và vĩnh cửu.
Tưởng rằng một con người tài sắc vẹn toàn như Kiều sẽ được sống một cuộc đời hạnh phúc như mơ, nhưng dường như đã đổi thay, cuộc đời Kiều trôi nổi vô định. Và phải chăng đó cũng là lời than thở chung cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa? Và có lẽ tất cả những thăng trầm mới chỉ là bắt đầu, trang làm nên cuộc đời cô hôm nay mới bắt đầu.
3. Bài Phân tích 18 câu đầu Trao duyên của Nguyễn Du ý nghĩa nhất:
Nguyễn Du tên chữ Tố Như là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du thành công ở cả hai thể loại chữ Hán và chữ Nôm. Làm nên tên tuổi của Nguyễn Du phải kể đến tác phẩm Truyện Kiều – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị nhân văn, tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Truyện Kiều kể về nàng Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nàng là một chuỗi bi kịch bất tận đầy ắp buồn đau và cảm xúc. “Trao duyên” là nỗi đau lớn và cũng là bi kịch đầu tiên trong 15 năm tha hương của cô. Đoạn trích sau đây là những lời Kiều nói với Vân, thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng.
“… Cậy em em có chịu lời,
…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về Liêu Dương dự tang lễ. Gia đình Thúy Kiều bị người bán tơ đánh oan. Sai nhân cơ hội gây án oan mặc quần lót. Tài sản gia đình đã tàn, Thúy Kiều đành chấp nhận hi sinh tình yêu với Kim Trọng, bán mình lấy tiền mặc áo lót cho đám bạn lầm than để cứu cha và anh thoát khỏi sự hành hạ dã man. Bán thân, thu xếp thuận buồm xuôi gió ” Hoa đã ký, vàng vừa trao”, Đêm trước khi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều nghĩ về thân phận và tình yêu của mình ” Đèn soi đêm nước mắt . dhh/ Dầu đã trắng, vết khăn vá”, rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình đi lấy Kim Trọng.
Kiều mở đầu cuộc trao duyên rất đặc sắc (2 câu đầu). Ưu ái là một điều khó nói, ngay cả khi đó là với em gái của bạn. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua đã thề vàng, đồng tâm quyết thất. Nó trở thành linh hồn, khó thay đổi. Nay nhờ Vân mà đã thề non hẹn biển với Kim Trọng. Kiều sợ gì, Vân nhận lời. Kiều rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan: Hở môi thì khép / Hở môi thì khép / Nếu để trong lòng thì biết giúp ai. Vì thế, nàng trước sau như một, mê đắm không biết nói gì khiến Vân không nỡ từ chối, nên Kiều đã mở lời trao tình rất đặc sắc: “Nếu em chịu nhận lời, nuôi em rồi chị sẽ nói. tạm biệt”. Du đã khéo chọn chữ “cậy”, vì chữ “cậy” tức là nhờ tất cả hy vọng, tin tưởng, định nghĩa chữ “cám ơn” này không được. ” của người khác không chỉ thể hiện sự đồng tình, chấp nhận mà còn bao hàm cả yêu cầu buộc người khác phải chấp nhận yêu cầu đó. dùng từ rất chính xác, vì đây là việc rất quan trọng đối với Kiều, nàng mong Thúy Vân sẽ đồng ý, vì vậy lời cầu xin là một chút gượng ép. Dù Kiều Duyên cũng hiểu rằng việc nhờ Thúy Vân kết duyên cùng Kim Trọng là điều hết sức phi lý, nhưng nàng vẫn quyết tâm trả ơn cho người yêu, bỏ qua lễ xuất gia mà tự “lạy” “thầy”. Kiều đã dùng chính nghi thức trước sau như một, đổi thế này đổi chỗ khác để trói buộc Vân. Cô ấy là chị, nhưng lại bảo Vân “chị ngồi dậy cho chị”. Bây giờ, cô ấy không còn là em gái của Vân nữa, cô ấy chỉ đơn giản là một người sống dựa dẫm vào người khác, và Vân sẽ là người giúp đỡ cô ấy. Kiều coi Vân như ân nhân – người có công cao, trọng nghĩa với mình. Qua đó cũng cho thấy vấn đề mà Kiều sắp nói tới phải là vô cùng quan trọng nên mới có sự thay đổi vị trí trong tình chị em như vậy. Mọi hành động, lời nói của Thúy Kiều vừa tạo được không khí trang trọng phù hợp để trao duyên vừa thể hiện sự khéo léo của Thúy Kiều khi mở lời thuyết phục Vân, đồng thời thể hiện khả năng dùng từ ghép. hành, sự tinh tế của Nguyễn Du
Tiếp theo, Kiều phó thác, gửi gắm mối tình dang dở của mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
“Gánh nặng tình nghĩa” là tình yêu sâu nặng của Kiều dành cho Kim Trọng. “Đợi giữa đường” là thành ngữ chỉ sự tan vỡ đột ngột của một tình yêu. Cái duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “thừa” rồi, “thừa” tức là lận đận, tan vỡ – cái duyên được đánh giá. Cách nói này cho thấy với Kiều, Thúy Vân lấy Kim Trọng là thiệt thòi cho Vân. Từ “mặc” dùng ở đây không có nghĩa là mặc kệ mình, mặc kệ, mà có ý Kiều muốn giao phó, phó thác trách nhiệm cho Thúy Vân, đặt trọn vẹn niềm tin ở đây. Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ của Kiều là nỗi nhớ Kim Trọng đã phải lỡ duyên lỡ làng, còn nỗi nhớ của Kiều về ngày tận thế là ngày Thuý Vân phải “nhặt cơm thừa”.
Trao duyên cho em mà tiễn nặng sao dễ? Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa về mối tình đầu, những kỷ niệm đẹp đẽ, mong manh của một thời vội vã ùa về khiến chị đau đớn khôn nguôi, không kìm được lòng, chị kể sơ qua hoàn cảnh của mình cho tôi nghe:
– “Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
– “Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Điệp từ “khi” nhấn mạnh tình cảm sâu nặng, bền chặt giữa Kiều và chàng Kim. Bằng nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước lệ”, “đêm đánh chén thề” khắc họa kỉ niệm tình yêu ngọt ngào, đẹp đẽ, trong sáng của Kiều và Kim Trọng, hai người đã đính hôn để trao nhau kỷ vật và chén rượu. rượu. thề, hứa, nhưng giờ tất cả đã là dĩ vãng. “Giông tố nào cũng có” là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, nhà Kiều bị truy oan, cha và anh Kiều bị bắt, làm sao cứu họ được, nàng phải bán mình, nghĩa là nàng đã đành. để phá vỡ lời hứa trước đây của cô với người yêu. Chữ “hiếu” nghĩa là gia đình và chữ “tình” nghĩa là tình yêu. Hoàn cảnh quá ngang trái, giữa hai lý do “cản” và “thê”, Kiều chỉ được chọn một. Có nội dung, ngày cuối cùng đau khổ, cuối cùng hy sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Yêu Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, đặt Vân vào tình thế mà chính Vân cũng phải hành động vì nàng. Lòng thương Kiều và lòng thương người là hai giá trị tinh thần không thể lựa chọn, đặt lên bàn cân mà xã hội phong kiến tàn bạo, bất công buộc con người phải lựa chọn. Nàng Kiều đã phải cay đắng chọn từ “quà tặng” trong khi thực tế trong lòng người tồn tại: “Niềm tin, hy vọng và tình yêu là lớn nhất”. Qua đó người đọc càng cảm thấy ngậm ngùi, xót xa cho Kiều khi nàng phải hi sinh mối tình đầu để “bán mình chuộc cha”.
Điệp từ “khi” nhấn mạnh tình cảm sâu nặng, bền chặt giữa Kiều và chàng Kim. Bằng nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước lệ”, “đêm đánh chén thề” khắc họa kỉ niệm tình yêu ngọt ngào, đẹp đẽ, trong sáng của Kiều và Kim Trọng, hai người đã đính hôn để trao nhau kỷ vật và chén rượu. rượu. thề, hứa, nhưng giờ tất cả đã là dĩ vãng. “Giông tố nào cũng có” là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, nhà Kiều bị truy oan, cha và anh Kiều bị bắt, làm sao cứu họ được, nàng phải bán mình, nghĩa là nàng đã đành. để phá vỡ lời hứa trước đây của cô với người yêu. Chữ “hiếu” nghĩa là gia đình và chữ “tình” nghĩa là tình yêu. Hoàn cảnh quá ngang trái, giữa hai lý do “cản” và “thê”, Kiều chỉ được chọn một. Có nội dung, ngày cuối cùng đau khổ, cuối cùng hy sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Yêu Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, đặt Vân vào tình thế mà chính Vân cũng phải hành động vì nàng. Lòng thương Kiều và lòng thương người là hai giá trị tinh thần không thể lựa chọn, đặt lên bàn cân mà xã hội phong kiến tàn bạo, bất công buộc con người phải lựa chọn. Nàng Kiều đã phải cay đắng chọn từ “quà tặng” trong khi thực tế trong lòng người tồn tại: “Niềm tin, hy vọng và tình yêu là lớn nhất”. Qua đó người đọc càng cảm thấy ngậm ngùi, xót xa cho Kiều khi nàng phải hi sinh mối tình đầu để “bán mình chuộc cha”.
Đã bày tỏ lòng mình nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều đã dùng lý lẽ và nhiều lý lẽ để thuyết phục nàng. Kiều dùng chi tiết máu mủ ruột thịt để trói buộc em và với thái độ mãn nguyện của mình dẫu có chết đi:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
“Ngày xuân” là hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống, cụ thể là tuổi trẻ. “Huyết ái” là mối quan hệ máu mủ, ruột thịt. Đúng vậy, Vân còn trẻ, còn cả một cuộc đời phía trước để vun đắp cho hạnh phúc, hơn nữa tôi và cô ấy lại là mối quan hệ máu mủ “nước đổ hơn ao tù” nên hãy vì tôi, vì tình yêu của em gái tôi. mà “thay nước non”. Thành ngữ “thịt nát, muối mòn” diễn tả nỗi buồn vô tận, nỗi bất hạnh dù là cái chết thê lương. Nếu đồng ý chấp nhận trao đổi tình cảm, nàng “mỉm cười ngâm” Em vẫn sẵn lòng và biết ơn anh, “thơm lây” vì việc tốt anh làm cho nàng, Qua đó cho thấy đối với Kiều, việc Vân kết nghĩa với Kim Trọng là một hi sinh, trao duyên cho Kiều là một nghĩa cử cao đẹp. Cô kể và gợi mở thật hấp dẫn. Bài thơ được Nguyễn Du viết cô đọng, mỗi dòng chứa đựng một sự việc thực tế và chúng tôi chồng lên nhau một cách liên tục, logic. Ngôn ngữ của Kiều là ngôn ngữ của lí trí, rất tài tình, lí trí đạt tới lí trí không chút kẽ hở khiến Vân không nỡ từ chối mà cũng đành lặng lẽ bước đi trong niềm tiếc thương vô tận cho nàng.
Sau bao lần thuyết phục, trao gửi, thấy Vân đồng cảm, Thúy Kiều chậm rãi trao kỷ vật tình yêu:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Thúy Kiều từ trao đổi kỷ vật tình yêu “cột mốc”, “tấm mây” rồi đến “đàn phím”, “mảnh lời nguyền” cho Thúy Vân. “Chiếc phan” là món quà đầu tiên Kim tặng cho Thúy Kiều khi nhận lời, “Tờ mây” là mảnh giấy có trang trí mây hoặc chữ giữa Kiều và Kim Trọng, là kỉ vật quý giá nhưng thiêng liêng, vô giá, thuộc về Kiều. còn riêng Kim Trọng thì gợi lên một tình yêu sâu nặng, thủy chung, nồng nàn và gợi lại một quá khứ hạnh phúc tươi đẹp. Cho nên khi nàng gửi lại tất cả cho Thúy Vân, tâm trạng không thật trong lòng Kiều lại trỗi dậy mạnh mẽ. Kiều đã tốn rất nhiều công sức để thuyết phục nhưng khi nàng vừa nhận lời thì Kiều đã giở trò để cố gắng níu kéo tình yêu của mình lại. Tặng quà là trao duyên. Nhân duyên của tôi bây giờ là nhân duyên của tôi, “Nếu nhân duyên này, hãy giữ lấy điều này của chung”. Bao nỗi đau chất chứa trong hai chữ “chung”, hai chữ này thể hiện sự giằng xé ghê gớm trong lòng Kiều. Lý trí quyết định trao tình yêu và trao kỷ vật cho mình, nhưng tình yêu nồng nàn, trân trọng và sâu sắc dành cho Kim Trọng đã khiến nàng luyến tiếc và cố gắng cứu vãn tình yêu ấy. Hai chữ “chung” cũng đã mở ra một bi kịch trong lòng nàng: Tình trao nhưng tình không tan. Hai từ “cố nhân” cũng đã nói lên tâm trạng xót xa, tiếc nuối của Kiều vì mối tình đẹp mới chớm nở mà khi trao cho Thúy Vân thì tất cả đã trở thành dĩ vãng xa xăm. Từ đây, kỷ vật Kiều trao cho tôi cũng là vật kỷ niệm để tôi nhớ đến Kiều, khi vui bên người tình, không bao giờ quên nàng. Suy nghĩ của Kiều thật chua xót và đáng thương. Nỗi đau như lắng lại trong câu thơ “dù đã thành vợ thành chồng” đã trao nhân duyên, cũng trao kỉ niệm về với tôi bằng những lời rất tin tưởng, nhưng rồi Kiều vẫn giả định như thế này. vẫn có gì đó chưa ổn, chưa ổn. Qua câu “thương cho kẻ bất hạnh” ta thấy Kiều tự thấy mình thật đáng thương, nàng là người có số phận kém may mắn để người khác phải chạnh lòng thương. Kỷ vật tình yêu thiêng liêng đối với Kiều giờ đã vào dĩ vãng xa xôi, nóng hổi nói tin còn nhưng người đã mất: “Mất đi ai còn hơi thở niềm tin”, lời Kiều ám chỉ cái chết. vẫn mang âm điệu trầm trầm như một lẽ tất yếu, khiến người đọc cảm thấy nhói đau trong lòng. Đó cũng chính là tài miêu tả tâm lý độc tài của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Nhịp thơ 4/4 đón đầu đoạn thơ như một tiếng nghẹn ngào, diễn tả nỗi đau giằng xé, sự chênh vênh giữa lí trí và tình cảm trong lòng Kiều.
Với đoạn trích trên, Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả tâm lí Kiều, ông đã rất khéo léo khi để Kiều kìm nén cảm xúc của mình và nói bằng ngôn ngữ của lí trí nhờ may mắn, số phận. quan trọng. Kiều đành phải dùng lý trí để phân tích thiệt hơn cho Văn Hiếu và nhận lời giúp nàng. Bên cạnh đó, đoạn trích còn cho thấy “sắc màu cuộc đời” của Nguyễn Du thể hiện ở cách lựa chọn từ ngữ để diễn tả tâm trạng của Kiều: thay vì xin và nhận mệnh, Nguyễn Du lại chọn từ và nhận mệnh. . Ngoài ra, trong đoạn trích trên, Tố Như còn kết hợp sử dụng ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ khoa cử thông qua việc sử dụng đồng thời cả thành ngữ dân gian và lối nói ước lệ mang tính tượng trưng, điển cố.
Với thể thơ lục bát được sử dụng thấm nhuần, sáng tạo toàn bộ kết hợp với cách dùng từ chuẩn mực, tinh tế và tài miêu tả tâm lí của Nguyễn Du để cho Kiều nói bằng ngôn ngữ của mình. Chỉ với 14 câu, Nguyễn Du đã thể hiện sâu sắc bi kịch buồn của Kiều trong tình yêu và những phẩm chất cao quý của Kiều: không chỉ tài hoa, hiếu thảo, thủy chung trong tình yêu mà còn trọng nghĩa tình. có nghĩa là tha thứ. Đồng thời qua tác phẩm ta cũng thấy được tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du đối với nhân vật của mình.