Văn mẫu: Cảm nhận về 8 câu cuối bài Trao duyên được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 10 hay dành cho các bạn học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 10 sắp tới đây của mình. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây nhé.
I. Dàn ý Cảm nhận về 8 câu cuối bài Trao duyên
1. Dàn ý Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên – Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn thơ Trao duyên và 8 câu thơ cuối đoạn.
Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân.
2. Thân bài
Bây giờ trâm gãy tình tanKể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức.
Sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người → tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỉ niệm mà họ đã từng có với nhau.
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân….……………………………..Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.
Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân.
Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.
→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của 8 câu thơ; đồng thời khái quát lại giá trị của đoạn thơ và cả tác phẩm.
2. Dàn ý Cảm nhận về 8 câu cuối Trao duyên – Bài mẫu 2
1. Mở bài
Đôi nét về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
Sơ lược về đoạn trích Trao duyên cùng với 8 câu thơ cuối của đoạn trích: Vị trí, nội dung của những câu thơ cuối.
2. Thân bài
Tâm trạng của nàng Kiều về sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại.
Suy nghĩ và sự ý thức về thân phận đau khổ cùng cực.
Tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của Kiều vì đã phụ Kim Trọng.
3. Kết bài
Nêu khái quát lại nội dung và nghệ thuật của 8 câu thơ cũng như trích đoạn Trao duyên.
Giá trị của đoạn trích và toàn bộ tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du.
Ý nghĩa nhân đạo sâu sắc trong 8 câu thơ cuối đoạn trích Trao duyên.
Những ấn tượng của bản thân về những dòng thơ cuối này.
II. Văn mẫu Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên
1. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 1
8 câu thơ trên được trích trong bào ‘Trao duyên: làm cuộc độc thoại, đối thoại với Kim Trọng của Thúy Kiều. Ở hai câu là Thúy Kiều tự độc thoại, Thúy Kiều đã ý thức được hiện thực phũ phàng. Tình yêu của nàng với Kim Trọng đã tan vỡ như trâm gãy với gương ta không thể lành lại được.
Những nỗi đau, mỗi buồn, những kỉ niệm đẹp của Kiều ‘kể làm sao xiết’, nàng tự thương cho số phận mình. Từ ‘lạy’ ở đây khác với từ ‘lạy’ ở đoạn đầu. ‘Lạy’ là để Thúy Kiều tạ lỗi với Kim Trọng, để hối lỗi, để vĩnh biệt. Nàng tự cảm thấy được số phận mình là số phận mệnh bạc. Nàng tự thương cho chính mình và đây cũng là nỗi đồng cảm của tác giả với Thúy Kiều.
Ở câu lục cuối cùng với nhịp thơi 3/3, Thúy Kiều đã gọi kim Trọng là ‘ kim lang’ bởi trong sâu thẳm lòng Kiều Kim Trọng là phu quân. Điều đó thể hiện tình yêu Kiều với Kim Trọng rất sâu nặng. Nhưng do hoàn cảnh, Kiều đành phải phụ Kim Trọng, đành phải vứt bỏ mối tình đẹp của mình.
Tóm lại tám câu thơ ta có thể hiểu thêm về Kiều hay cũng chính là hiểu thêm về người phụ nữ thời phong kiến.
2. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 2
Trao duyên cho em, nỗi đau này ai có thể thấu cho nàng Kiều. Sau giây phút vô cùng đau đớn, Kiều rơi vào nỗi đau khổ và tuyệt vọng đến cùng cực, nàng nghĩ về Kim Trọng và càng đau xót hơn, nỗi đau đó được thể hiện trong tám câu thơ cuối trong đoạn trích: “Trao duyên”.
Trong tột cùng nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng. Với nàng Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hy vọng, là niềm an ủi, chia sẻ với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là trong tưởng tượng. Nàng cất lên lời than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng:
Bây giờ trâm gãy gương tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu với của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn đau hơn. Lời nàng tạ tội của nàng thật thương tâm: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Kiều cất lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mỏng manh, bạc bẽo của bản thân.
Phận sao phận bạc như vôiĐã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Dường như lúc này đây tình cảm của nàng đã lấn át cả lý trí. “Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời nói lên án cả xã hội phong kiến. Nhưng dù như vậy nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Số phận nàng ta cũng bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm như nàng Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng rẫy phải tự vẫn để minh oan, hay những người con gái được phản ánh trong các câu ca dao:
“Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của nàng Kiều. Hơn thế nữa, câu thơ cũng là lời dự cảm, một lời lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu. Nỗi đau trào dâng, bao nhiêu tình cảm dồn nén tràn đầy cả tâm trí. Bởi vậy, nàng thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn với Kim Trọng:
Ơi Kim Lang! Hỡi Kim LangThôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Có lẽ rằng đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như thế. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần dường như bao nhiêu tình cảm chất chứa đều được thốt lên qua tiếng gọi người yêu đầy tha thiết của nàng. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng không thể tiếp tục chịu đựng hơn được nữa, Kiều đã ngất đi:
Cạn lời hồn ngất máu sayMột hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng
Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, ngôn ngữ độc thoại đã cho thấy nỗi đau đớn đến tột cùng của Thúy Kiều. Nhưng đồng thời qua những câu thơ ngắn ngủi đã cho thấy tình cảm và nhân cách đẹp đẽ của nàng, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng đến cùng cực nhưng nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.
3. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 3
Trong giây phút ấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi. Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:
Bây giờ trâm gãy gương tanKể là sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Lời đối thoại có sự chuyển hướng: Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim. Cho nên bao nhiêu tình thương nỗi nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra. Nhìn lại cái “bây giờ” của Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa. Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả. Hình tượng “Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, “trâm gãy gương tan”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.
Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân” – người đã cùng nàng trải qua bao kỉ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội – mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết. Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi. Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
Phận sao phận bạc như vôi!Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình. Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Rồi đây số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình. Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm. Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình: “Cạn lời hồn ngất máu sau – Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối. Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng dặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại,… làm cho đoạn “Trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
4. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 4
Mối tình Kim – Kiều buổi ban đầu ngỡ sẽ nên duyên đẹp, nhưng số phận đưa đẩy, để cứu cha và em mình, Kiều buộc phải bán thân. Lời hẹn thề cùng vật đính ước, Kiều đánh ngậm ngùi gửi trao cho em gái Thúy Vân. Tình cảm và lý trí mâu thuẫn, Kiểu vừa đau, vừa xót, vừa thương. Đoạn trích Trao duyên đã thể hiện rất rõ tâm trạng ấy của nàng Kiều, đặc biệt, đọc 8 câu cuối đoạn trích ta khóc khỏi xót xa trước những lời thấu tâm can của Kiều:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kế làm sao xiết muôn vàn ái ân.
…
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Lời thề nguyền đêm xưa con đó, vậy mà bây giờ đây tình đôi ta vụn vỡ, chia lìa “trâm gãy, gương tan”. Tình yêu đẹp biết bao vậy mà phải chia đôi ai khiến lòng người đau đớn, xót xa. Hơn thế nữa, Kiều là phận gái, lại là người nặng tình nghĩa, thủy chung, nàng càng đau gấp bội. Buộc phải trao duyên cho em là lựa chọn cuối cùng của Kiều dù lòng chẳng đặng, thực tại phũ phàng quá, trái tim nàng, cõi lòng nàng tan nát. Mỗi lời thốt ra như một lời ai oán khóc thương cho phận mình, cho cuộc tình mình:
“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”
Những thành ngữ “phận bạc như vôi” “nước chảy hoa trôi” được tác giả vận dụng vào thơ để đặc tả thân phận bạc bẽo, chìm nổi, lênh đênh của nàng Kiều. Xã hội bất công, lòng người gian dối đã đọa đày nàng vào chỗ tối tăm, đây tình yêu nàng vào cuộc tơ duyên “ngắn ngủi”. Trước sự phũ phàng của số phận, nàng dù rất muốn nhưng chẳng thể nào đấu tranh, đành ngậm ngùi chấp nhận “Đã đánh nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Thương biết bao số phận lênh đênh của người phụ nữ phong kiến, cuộc đời may rủi không do mình chọn lựa:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu”.
Thúy Kiều ví mình như hoa giữa dòng, vô định, nhỏ bé, mong lung giữa mênh mông sóng nước. Hoa “lỡ làng” mối duyên đẹp rồi sẽ đi về đâu, có đến được bến bờ hay mãi lênh đênh giữa dòng nước lớn.
Càng nghĩ càng đau đớn, tâm can nàng Kiều nặng trĩu, nàng thương mình một mà thương Kim Trong mười. Nàng thấy bản thân đã phụ lòng kẻ tri âm, Kiều thốt lên lời xin lỗi đẫm nước mắt:
“Ơi !Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Các thán từ ơi, hỡi, kết hợp với hai tiếng Kim Lang nặng lòng tha thiết, dường như bao nhiêu tình cảm dành cho Kim, Kiều đã dồn hết vào trong hai tiếng gọi ấy. Kiều tự nhận lỗi về mình, tự nhận mình là kẻ phụ bạc tấm lòng chàng Kim để rồi đau đớn, cay đắng trào dâng, cồn cào trong trái tim nàng:
“Thôi thôi thiệp đã phủ chàng từ đây”
Lời xin lỗi cuối cùng đau xót đến nghẹn ngào của Kiều khiến ai cũng phải xót thương. Trước chàng Kim, Kiều không đổ lỗi cho số phận hay hoàn cảnh mà nàng tự nhận lỗi về mình. Điều đó cho thấy được tâm tư và tấm lòng của nàng. Nàng không còn nghĩ đến nỗi đau của mình nữa mà mọi lắng lo đều hướng đến chàng Kim – người nàng vốn vẫn hết mực thương yêu.
8 câu thơ cuối bài là một nốt nhạc trầm sâu lắng của đoạn trích. Kiều thương Kim Trọng bao nhiêu thì người đọc càng thương Kiều bấy nhiêu. Và trên hết, con là sự cảm phục một người con gái có cốt cách cao cả, trọng nghĩa, trọng tình.
5. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 5
Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều đã cho thấy bút pháp rất mực tài hoa của Nguyễn Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật. Qua trích đoạn, ta càng thấu hiểu, thương cảm cho cho số phận truân chuyên, bạc mệnh của Thuý Kiều. Tám câu cuối bài thơ là đoạn thơ đầy ấn tượng khi tái hiện đầy xót xa tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Sau khi cậy nhờ em thay mình chắp mối “duyên thừa” cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng mình. Đó là nỗi tuyệt vọng, khổ đau lên đến tột cùng khi phải buông tay với mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Trạng ngữ xác định thời gian “bây giờ” chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ “trâm gãy gương tan” để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.
Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc “muôn vàn ái ân” của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,… Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.
Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”
Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động “trăm nghìn gửi lạy” cùng lời tha thiết, cảm thán “Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi” là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?
Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:
“Phận sao phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy hoa thôi lỡ làng”
Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận “đã đành” cho “nước chảy hoa trôi” cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.
Hai tiếng “Kim Lang” tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ “Kim Lang” kết hợp với thán từ “Ôi”, ” Hỡi” cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tám câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.
Trao duyên nói chung và tám câu cuối trích đoạn nói riêng đã góp phần mình vào sự thành công của tuyệt tác Truyện Kiều. Tin rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ vẹn nguyên giá trị lâu bền, được bao thế hệ đọc giả trân trọng và giữ gìn.
6. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 6
Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa vô cùng to lớn, là kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam – Truyện Kiều. Trong mỗi đoạn trích của tác phẩm, thông qua nhân vật Thúy Kiều tác giả đã lan tỏa cả những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong từng câu thơ. Đặc biệt là trong đoạn trích Trao duyên – một đoạn trích tiêu biểu, cao trào cho bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều, tám câu thơ cuối được ví như lời oán thán, tiếng thét không nên lời của một kiếp người nhỏ bé đành cam chịu sự an bài của số phận.
Sau khi thuyết phục em gái mình là Thúy Vân chấp nhận mối nhân duyên với Kim Trọng, Thúy Kiều đem trao hết tất cả những kỉ vật giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân và dặn dò em bằng những lời tự tận đáy lòng. Thúy Kiều trong lúc đau đớn, xót xa đã bất giác quên đi việc đang trò chuyện với em mà chuyển sang độc thoại nội tâm, đó là khi nàng nhớ về Kim Trọng. Tám câu thơ dưới đây là tiếng than oán xé lòng và lời từ biệt đầy đau thương của Kiều dành cho tình quân của mình.
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang”
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Có thể thấy, trong tám câu thơ trên đã có đến năm câu cảm thán, trước mắt người đọc là hình ảnh của một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận đưa đẩy đến bước “đoạn trường” đang ngồi sụp xuống buông xuôi tất cả. Lời thơ của Thúy Kiều đầy đau đớn, chạm tới sự rung cảm của người đọc. “trâm gãy gương tan” ám chỉ cho mối tình đã tan vỡ, tan vỡ theo cách không thể nào hàn gắn hay lành lại được nữa. Đây sẽ là sự chia ly vĩnh viễn, không thể cứu vãn được nữa rồi. Ấy vậy mà trước đó nàng và chàng Kim đã có mối tình đẹp biết bao “muôn vàn ái ân” với bao kỉ niệm và kỉ vật trao nhau. Bây giờ tất cả đều không còn ý nghĩa gì nữa, nàng phải rũ bỏ hết, tự mình chối bỏ tình cảm ấy để trọn hiếu nghĩa với mẹ cha.
Đối với Kim Trọng, người “tình quân” của nàng đã tin yêu nàng hết lòng, cho đến bây giờ lại không thể cùng nàng trọn nghĩa phu thê, đó là điều khiến Thúy Kiều day dứt và đau đớn nhất. Nàng không biết làm thế nào để tạ lỗi với Kim Trọng, chỉ còn biết “trăm nghìn gửi lạy”, gửi cái lạy tạ lỗi với tấm chân tình của chàng Kim, đây là cái lạy cho sự bái biệt đầy thiêng liêng cho thấy Thúy Kiều rất trân trọng và chân thành với mối tình này. Chỉ mong rằng Kim Trọng hiểu được nỗi lòng, số phận và hoàn cảnh của mình mà chấp nhận se duyên với em gái. Thúy Kiều đã phải than oán về số phận với hàng loạt thành ngữ như “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng”, ám chỉ cho số phận hẩm hiu, bạc bẽo, trôi nổi của Thúy Kiều. Nàng Kiều ý thức được số mình đầy đau khổ, lênh đênh dang dở, nếu như quá khứ đầy yêu thương, muôn vàn ái ân bao nhiêu thì bây giờ là thực tại đầy đau khổ, bẽ bàng bấy nhiêu, số phận nàng đã được an bài như vậy.
Không còn là những người lặng lẽ cam chịu, câm nín chịu đựng số phận, nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du đã bứt phá ra khỏi những định kiến xã hội đương thời, dám kêu lên tiếng xót xa, không ngại oán than cho cuộc đời và số phận. Mặc dù chẳng thể thay đổi nhưng ít ra điều đó thể hiện rằng Thúy Kiều là một người thấu hiểu lý lẽ, trọn tình trọn nghĩa. Đặt mình trong hoàn cảnh buộc phải chọn lựa giữa gia đình và tình yêu nàng đã chọn hy sinh tình yêu để bán thân cứu lấy cha mẹ. Tiếng gọi chàng Kim “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang” là tiếng gọi da diết, nghẹn ngào, có phần đau đớn trong tuyệt vọng, ta có thể hình dung ra Thúy Kiều đã trở thành một người vô hồn, đau đớn đến tận cùng. “Thôi thôi” như là sự kết thúc, không còn hy vọng, không còn gì để chờ đợi, phải chấp nhận sự thật nghiệt ngã này. Đến đây là kết thúc tình yêu này, và Thúy Kiều đã chấp nhận mình là người phụ bạc, không thể chối cãi tình cảm nàng dành cho Kim Trọng là tha thiết, chân thành nhưng chữ hiếu đã buộc nàng chọn hy sinh tình yêu, nàng không có lựa chọn khác. Tuy đã nhờ được Thúy Vân gánh vác mối nhân duyên này nhưng sâu trong thâm tâm của Thúy Kiều không được thanh thản, nàng đau khổ, than thân trách phận và oán thán cuộc đời bất công với mình. Mặc dù cuộc đời của Kiều đau khổ nhưng lại toát lên nhân cách sáng ngời, nàng vẫn luôn đòi hỏi về thân phận, tình yêu đôi lứa nhưng cũng không quên đi đạo nghĩa làm con.
Qua đoạn trích Trao duyên, chúng ta cảm nhận được Thúy Kiều không chỉ là một hình tượng nghệ thuật, một số phận được sáng tạo bởi bàn tay tài hoa của đại thi mà nàng rất gần với một con người thực, với một nhân cách tự nhiên nhiều chiều. Tình cảm, nỗi đau và sự hy sinh của Thúy Kiều khiến chúng ta không ngừng nghĩ về chính bản thân mình giữa cuộc đời, cảm thông cho sự đắng cay, bạc bẽo của số phận nàng Kiều.
7. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 7
Trong văn học trung đại, sự ý thức về thân phận con người, cũng như tấm lòng thương cảm, xót xa cho những số kiếp bạc bẽo, dường như còn hạn chế và không phải là một trong những đề tài được nhiều văn nhân, thi sĩ lựa chọn. Tuy nhân vượt ra ngoài khuôn khổ ấy, ta vẫn thấy Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc, dù sống dưới chế độ phong kiến hà khắc, sự chênh lệch về tầng lớp giàu nghèo rõ rệt, cũng như quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn đang rất nặng nề. Thế nhưng tư tưởng của ông lại đi trước thời đại đến tận vài trăm năm, ông không chỉ xót thương, thông cảm có số phận con người, đặc biệt là những phận hồng nhan lắm truân chuyên mà còn có cái nhìn thực tinh tế, nhân đạo, khi khẳng định và đề cao giá trị của người phụ nữ bao gồm cả nhan sắc và trí tuệ. Đồng thời cũng thông qua đó kín đáo lên án sự bất công, thối nát của chế độ phong kiến, đã đẩy những kiếp người nhỏ bé, dù mang trong mình nhiều phẩm giá tốt đẹp cuối cùng cũng vẫn phải chịu cảnh vùi dập đớn đau. Truyện Kiều được xem là một kiệt tác trong nền văn học trung đại, cũng như toàn bộ nền văn học Việt Nam, với tầm ảnh hưởng sâu rộng và hai trường giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo được thể hiện thông qua những câu thơ có âm vần, thanh điệu uyển chuyển, kể về cuộc đời người con gái tài sắc Thúy Kiều. Trong trích đoạn Trao duyên, sau khi bi kịch đổ xuống Thúy Kiều buộc phải trưởng thành để gánh vác gia đình, không chỉ bán mình làm lẽ để lấy tiền chuộc cha và em, Kiều còn phải dứt tình với Kim Trọng đồng thời trao duyên cho em gái, điều này đã để lại trong lòng nàng những tổn thương và nỗi đau đớn đoạn trường. Điều đó được bộc lộ rất rõ trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích Trao duyên, những câu thơ được ví như tiếng thét câm lặng, lời oán than ngập tràn nước mắt cho một kiếp người long đong.
Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng là một mối tình đẹp, đẹp bởi sự xứng lứa vừa đôi, trong khi Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, thì Kim Trọng cũng là người học thức sâu rộng, gia đình nền nếp, gia giáo, diện mạo khôi ngô tuấn tú. Chính lẽ ấy, họ dường như đã hiểu lòng nhau ngay từ những lần gặp đầu tiên, không chỉ đơn giản là tình yêu mà còn là tình tri kỷ. Đặc biệt trong Truyện Kiều Nguyễn Du cũng có cái nhìn khá phóng khoáng và táo bạo, khi viết về chuyện tình của Kim Trọng với Thúy Kiều. Ông đề cao sự tự do trong tình yêu đôi lứa, khi để cả hai tự định chung thân, thề nguyền với nhau, rồi cảnh Kiều nhân lúc cha mẹ về thăm quê, đã sang nhà Kim Trọng để hẹn thề với người thương. Những chi tiết ấy, có thể rằng đã trở nên mất lễ giáo, thiếu quy tắc trong xã hội cũ, tuy nhiên dưới cái nhìn của Nguyễn Du, nhân vật Thúy Kiều và tình yêu của nàng phải có gì đó khác biệt và ấn tượng, hơn hết ông muốn tạo ra cho nhân vật của mình sự tự do không chỉ về thể xác mà cả về tâm hồn, đó chính là tiến bộ của Nguyễn Du trong tư tưởng nhân đạo, yêu thương con người. Quay trở lại với trích đoạn Trao Duyên, người ta thấy được một Thúy Kiều thông minh, sắc sảo và quyết tuyệt khi từng bước thuyết phục Thúy Vân giúp mình nối duyên với Kim Trọng. Sau khi mọi chuyện đã được dàn xếp ổn ổn thỏa, thì ngay lúc này đây Kiều đã chẳng thể giữ được dáng vẻ cứng rắn, bình tĩnh, sự khéo léo bình ổn nữa, nàng trở về với dáng vẻ yếu đuối, bộc lộ những đớn đau tột cùng trong lòng mình trước sự tan vỡ của tình yêu, trước nỗi đau thân phận. Mà đọc những câu thơ cuối người ta như hình dung được hình ảnh một cô gái sụp xuống, bất lực với dòng lệ tuôn rơi, đôi mắt thẫn thờ, tuyệt vọng.
“Bây giờ trâm gãy bình tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.Phân sao phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Thúy Kiều nghĩ về chuyện tình của mình bằng lời thơ đầy đau đớn “Bây giờ trâm gãy bình tan”, mấy chữ “trâm gãy bình tan”, là chỉ sự tan vỡ không thể hàn gắn, là sự chia ly không lối thoát của nàng và Kim Trọng, Kiều hiểu rằng lần chia ly này có lẽ sau này gặp lại tình cảm cũng chẳng còn như xưa, bởi lẽ trâm đã gãy thì keo nào có thể gắn liền, bình đã tan thì làm sao còn có thể chắp vá. Dù có cố gắng thêm nữa người ta cũng chỉ có thể nhìn thấy cảnh sứt sẹo dày đặc. Có thể nói rằng câu thơ này không chỉ bộc lộ sự tuyệt vọng của Thúy Kiều trước sự tan vỡ của tình yêu mà còn là những dự cảm về chuyến tương phùng sau 15 năm đằng đẵng nhớ thương, cuối cùng nàng và Kim Trọng cũng chỉ có thể “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Đến câu thơ tiếp “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”, chính là lúc Thúy Kiều hồi tưởng lại những ký ức tốt đẹp, ngọt ngào của nàng với Kim Trọng, những đêm “quạt ước chén thề”, thưởng trăng, ngâm thơ, đàn hát, những tưởng cuộc sống tươi đẹp ấy sẽ kéo dài vĩnh viễn, nhưng ngờ đâu biến cố ập tới, tất cả những mộng ước đều tan biến thành hư vô. Sự tổn thương, hụt hẫng trong tình cảm, đặc biệt là ở người con gái trong mối tình đầu thường sâu sắc và đau đớn vô cùng. Nỗi đau này càng được nhân lên khi Kiều bị buộc phải giữ lý trí từ bỏ hạnh phúc của bản thân để cứu gia đình. Như vậy những kỷ niệm trước kia của nàng và Kim Trọng càng đẹp càng hạnh phúc bao nhiêu, thì giờ lại càng làm lòng nàng tan nát bấy nhiêu. Không chỉ dừng lại ở nỗi đau tan vỡ tình yêu, Kiều cò phải chịu cảnh giày vò khi trở thành người phụ bạc, rời bỏ người yêu để đi lấy chồng, dù rằng bản thân nàng cũng là bất đắc dĩ. Thúy Kiều đã bộc lộ lòng day dứt, hối lỗi trong hai câu “Trăm ngàn gửi lạy tình quân/Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi”, thấu hiểu cuộc đời Kiều ta chưa bao giờ thấy nàng có lỗi, hay sống lỗi lầm với một ai, Kiều luôn cố gắng vẹn toàn với tất cả những người mà nàng yêu mến trân trọng. Thế nhưng đối với Kim Trọng, nàng vẫn luôn cảm thấy tự trách vì sự bội ước của mình, dù rằng Kiều cũng đã cố trả duyên cho chàng Kim bằng việc trao duyên cho Vân. Sự tự trách của Kiều trước hết xuất phát từ việc nàng tự quyết định từ bỏ tình yêu của mình với tình quân, thứ hai là xuất phát từ những tình cảm sâu sắc, sự trân trọng của Kiều dành cho chàng Kim. Phàm là ai khi đối diện với người mình rất mực quan tâm, dù chỉ một chút tổn thương đối với người kia cũng làm họ không yên, bứt rứt. Trong câu thơ “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” chữ “lạy” của Kiều chính là lời xin lỗi sâu sắc và đầy day dứt, là sự bái biệt đầy thiêng liêng với tình yêu, với người yêu đang còn ở quê xa của nàng. Bởi lẽ mai đây nữa thôi, khi Kim Trọng trở lại, chờ đón chàng chính là cảnh không từ mà biệt của Thúy Kiều, Kiều hiểu được nỗi đau đớn và bàng hoàng ấy, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác nữa. Đồng thời hai câu thơ này cũng thể hiện sự trân trọng, tấm lòng chân thành của Thúy Kiều đối với Kim Trọng, nàng tự thấy mình đã phụ bạc, nên chỉ đành bái lạy, tự đặt mình ở vị thế dưới, xem như lời tạ lỗi to lớn nhất, hy vọng rằng Kim Trọng có thể hiểu cho những nỗi khổ tâm khi phải lựa chọn giữa chữ tình chữ hiếu của nàng.
“Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi”
Câu thơ chính là sự bất lực đến tuyệt vọng của Thúy Kiều khi nàng phải chấp nhận dằn lòng quên đi mối tình đậm sâu với chàng Kim, mối duyên dẫu ngắn ngủi nhưng đẹp như ánh trăng rằm, mà có lẽ cả đời Kiều chẳng thể nào quên được. Sau những lời tâm tình đau xót về tình duyên, Kiều quay lại với sự tự ý thức về nỗi đau thân phận “Phận sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Vì quá đau đớn, vì sự tủi nhục đang dồn nén, Kiều đã không thể chịu đựng mà thốt lên lời oán than cho số phận bất hạnh bạc trắng như vôi của mình. Nghĩ đến chuyện một thiếu nữ độ 15, 16 tuổi đời, nhưng trong lời than, trong ý thức lại nhiều chua xót như thế, đủ hiểu nàng đã phải chịu đựng những áp lực tâm lý to lớn đến nhường nào.
Không chỉ vậy sự tự ý thức về nỗi đau thân phận còn chính là biểu hiện của sự thông minh, thấu hiểu lý lẽ của Thúy Kiều. Nếu những hồng nhan xưa âm thầm chịu đựng, thì đến với thơ của Nguyễn Du người phụ nữ đã biết oán than, kêu lên những tiếng xót xa, để phản ánh sự hiện thực xã hội, cũng như là việc họ cần một lối thoát, dù rằng điều đó là khó có thể xảy ra. Mấy chữ “nước chảy hoa trôi” chính là dự cảm không lành về một cuộc đời lênh đênh, không biết sẽ trôi dạt về phương nào của Thúy Kiều, nàng đang chìm trong cảm giác mất phương hướng và chông chênh đến vô cùng, cũng là ẩn ý của tác giả về những sóng gió phía trước đang đón đợi người con gái đáng thương, bạc mệnh.
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Hai câu thơ cuối chính là lời từ biệt đầy xót xa, đau đớn của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng người mà nàng đã bội ước, cũng thể hiện tình yêu sâu sắc, tấm lòng thủy chung, nỗi tiếc nuối khôn nguôi khi chuyện tình yêu đứt gánh giữa đường, không còn cách vãn hồi. Trong tiếng kêu khóc, đau đớn tuyệt vọng ấy, người ta dường như thấy nước mắt nhuộm đầy từng câu chữ, nỗi đau đoạn trường day dứt đầy ám ảnh. Không khỏi khiến người đọc trăn trở về số phận của Thúy Kiều, vì nông nỗi nào mà một người con gái vốn có tất cả trong tay lại bỗng chốc rơi và đường cùng, tuyệt lộ, phải chịu cảnh đớn đau chia lìa, sự tủi nhục uất ức đến như vậy.
Có thể thấy rằng, Thúy Kiều là người con gái dường như có tất cả, nhưng cũng là người phải gánh chịu đủ mọi đau đớn trên cuộc đời ứng với câu mở đầu Truyện Kiều rằng “Trăm năm trong cõi người ta/Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Trong những câu thơ cuối của trích đoạn Trao duyên, người ta thấy hiện lên hình ảnh một người con gái đang phải đối diện với nỗi đau đớn đoạn trường, khi buộc phải từ bỏ tình yêu, buộc phải làm trái lời thề ước vì hai chữ hiếu đạo. Bên cạnh đó còn là nỗi tuyệt vọng, bất lực của Thúy Kiều khi đứng trước biến cố của cuộc đời, mà bản thân nàng không đủ sức để chống chọi, cuối cùng phải chấp nhận cảnh long đong theo dòng đời xô đẩy, chẳng biết dạt về đâu, bạc bẽo đến vô cùng.
8. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 8
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.
Dù có quay về quá khứ hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:
“Bây giờ trâm gãy gương tanKể làm sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quân,Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!Phận sao phận bạc như vôi!Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như “muôn vàn, trăm nghìn” thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.
Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
“Ôi Kim lang hỡi Kim langThôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ “ôi, hỡi” khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.
Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích “Trao duyên” đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.
9. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 9
Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thực sự là một ví dụ xuất sắc về tài hoa của ông trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm của nhân vật. Qua đoạn trích này, chúng ta có cơ hội thấu hiểu và cảm thông sâu sắc đối với số phận đầy bi thương và bạc mệnh của Thuý Kiều. Trong tám câu cuối của đoạn thơ này, chúng ta được chứng kiến một bức tranh tâm trạng cực kỳ xót xa và tuyệt vọng của Kiều. Sau khi dấn thân vào việc cậy nhờ em gái Thúy Vân thay mình trao duyên với Kim Trọng, Kiều phải đối mặt với nỗi tuyệt vọng và khổ đau không thể tả. Cô không chỉ mất đi mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng mà còn phải lòng trong tâm hồn sự tự trách móc và tội lỗi vì đã phụ bạc chàng.
Sau khi Thúy Kiều đặt niềm tin vào em gái Thúy Vân, để em thay mình “chắp mối duyên thừa” với Kim Trọng, cuộc đời của cô trở nên đầy đau đớn và khổ đau. Đây là một thời điểm đầy tuyệt vọng, khi Kiều phải đối mặt với việc buông tay mối tình đẹp đẽ mà cô đã có với chàng Kim.
Câu thơ “Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” thể hiện một cách xuất sắc tâm trạng của Kiều. Từ “bây giờ” đánh dấu thời điểm hiện tại, thể hiện một cách rõ ràng sự tan vỡ của mối tình. Thành ngữ “trâm gãy gương tan” tượng trưng cho sự mất mát và sụp đổ, và việc “xiết muôn vàn ái ân” trở nên vô cùng khó khăn, thậm chí là không thể. Tình yêu đẹp đẽ đã tan thành hư vô, và Kiều phải đối mặt với sự thay đổi lớn trong cuộc đời mình.
Cả câu thơ và trạng ngữ xác định thời gian đều giúp chúng ta cảm nhận được mức độ của đau đớn mà Kiều đang trải qua. Mối tình tươi đẹp đã kết thúc, và sự hy vọng gắn kết lại nó trở nên vô nghĩa. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ “trâm gãy gương tan” để ám chỉ sự mong manh và dễ vỡ của mối tình giữa Kim và Kiều, và sự tan vỡ này không thể nào được hàn gắn lại.
Tình yêu của Kiều đối với Kim Trọng thể hiện qua những dòng thơ này là một tình yêu chân thực, mãnh liệt, và lớn lao, không giới hạn. Mối tình này đã trải qua nhiều thăng trầm và kiên trì vượt qua mọi khó khăn. Chính vì tình yêu đó, mà nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng khi chấp nhận buông tay mối tình này càng trở nên đau đớn và xót xa hơn. Những từ “Trâm đã gãy, bình đã tan” tượng trưng cho sự tan vỡ hoàn toàn của mối tình này. Trâm và bình ở đây có thể hiểu như biểu tượng cho mối tình đẹp và hạnh phúc của Kim và Kiều. Tình yêu này đã trở nên mong manh và dễ vỡ, không còn khả năng chắp vá hay hàn gắn nữa. Hy vọng mối tình này có thể được giữ lại và gắn kết một lần nữa cũng đã hoàn toàn tan biến.
Kiều đau đớn và nhớ về những giây phút hạnh phúc, những kỷ niệm đẹp đẽ khi hai người cùng nhau. Đó là những khoảnh khắc thắm thiết, những kí ức ấm áp và nồng đượm mà Kim và Kiều đã có. Họ đã hứa hẹn và thề nguyện, đã tổ chức lễ ước trăm năm, đã cùng nhau thưởng thức ánh trăng vàng, hát hò, và tận hưởng những niềm vui và tình cảm thăng hoa. Tất cả những hạnh phúc lớn lao này trước đây giờ đây trở thành dĩ vãng và tan biến trong hư vô, khi tình yêu của họ chưa dứt.
Những dòng thơ cuối của đoạn trích này thể hiện sự tiếc nuối và đau đớn trong tâm trạng của Kiều khi phải buông tay với tình yêu đẹp đẽ với Kim Trọng. Bản thân Kiều tự trách mình, cảm thấy mình đã phụ bạc chàng và không thể giữ lại mối tình này. Câu “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” thể hiện sự tôn trọng và biết ơn Kiều dành cho Kim Trọng, và đồng thời cũng là cách thể hiện sự xót xa và hối hận về việc phải chia xa.
Lời cảm thán “Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi” là một cách tuyệt vời để tác giả thể hiện tâm trạng của Kiều. Tình duyên giữa họ bị cắt đứt quá sớm, và Kiều cảm thấy nó ngắn ngủi, không đủ để họ có thể sống một cuộc đời hạnh phúc bên nhau. Câu này cũng thể hiện sự thấu hiểu và nhận thức của Kiều về tình duyên và số phận đau khổ của mình. Kiều tự trách mình và thất vọng về việc tình yêu của họ không thể kéo dài lâu hơn.
Từ “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành” thể hiện lòng hiếu thảo và trách nhiệm của Kiều. Nàng đã hy sinh hạnh phúc của mình để đền ơn bố mẹ và trở thành một người con hiếu thảo. Tuy nhiên, sự hy sinh này đã đẩy nàng vào cuộc đời đầy khổ đau và nỗi tiếc nuối. Kiều tự trách mình đã “bội ước” với Kim Trọng, và điều này làm cho tâm trạng của nàng trở nên xót xa hơn.
Dòng thơ “Phận sao phận bạc như vôi” thể hiện sự nhận thức và thấu hiểu sâu sắc của Kiều về tình yêu và số phận. Nàng biết rằng phận mình giống như vôi, tức là dễ dàng tan biến và không thể giữ lâu dài. Kiều tự trách mình đã phụ bạc chàng Kim Trọng và để tình yêu của họ tan vỡ như vôi tan trong nước. Từ “phận sao phận bạc” thể hiện sự nhận thức về tính chất mong manh và tạm thời của tình yêu và cuộc sống.
Câu “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng” tạo ra hình ảnh bi thảm và uất ức của Kiều. Nước chảy và hoa trôi là biểu tượng cho thời gian và cuộc sống, và câu thơ này thể hiện sự không thể ngăn cản được thời gian trôi qua và cuộc đời tiếp tục diễn ra. Kiều cảm thấy như mình đã bị lỡ mất cơ hội hạnh phúc và tình duyên tan biến như những bông hoa trôi nổi trên mặt nước. Tất cả những cảm xúc này tạo nên một tầng tầng sâu sắc trong tâm hồn của Kiều và thể hiện sự đau khổ và bi thảm của nàng trước số phận bất công và tàn nhẫn.
Những tiếng “Kim Lang” trong đoạn thơ cuối của Truyện Kiều là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt và trọn đời mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ “Kim Lang” kèm theo những thán từ “Ôi” và “Hỡi” thể hiện sự giao thiệp tận cùng của Kiều với tình yêu và trái tim của nàng. Nhịp thơ 3/3 tạo ra một âm điệu cảm xúc, như tiếng gào thét từ trái tim đau xót của Kiều. Mỗi từ ngữ đều nói lên tình cảm đậm sâu và đau đớn của nàng, và chúng thể hiện sự yêu thương và trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng.
Cuối cùng, lời từ biệt “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” thể hiện sự lòng chung thuỷ và trọng nghĩa của Kiều đối với Kim Trọng. Nàng tự thừa nhận và xin lỗi vì đã phụ bạc chàng, và câu thơ này mang trong mình sự luyến tiếc và đớn đau đến tận cùng. Đây là sự tự trách móc của Kiều và lòng biết ơn với mối tình đẹp đã từng có.
Tám câu thơ cuối trong đoạn này không chỉ thể hiện sự đoan trang và đức hi sinh của Kiều mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là lời lên án xã hội bất công và sự thương cảm trước những số phận không may mắn như của Kiều. Đồng thời, tác giả Nguyễn Du cũng thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc thông qua việc miêu tả nội tâm của nhân vật, sử dụng các kỹ thuật thơ và thành ngữ dân gian để tạo ra một đoạn thơ đầy ấn tượng và ý nghĩa.
Trao duyên, cùng với toàn bộ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, đã trở thành một phần không thể thiếu của văn học cổ điển Việt Nam và được nhiều thế hệ đọc giả yêu mến và trân trọng. Được viết bằng thể thơ lục bát độc đáo, Truyện Kiều đã khắc họa một câu chuyện đầy tình cảm và nhân đạo, với những nhân vật sâu sắc và nội tâm phong phú.
Đoạn trích Trao duyên không chỉ thể hiện tài năng về nghệ thuật và sự hiêu quả trong việc khắc họa nội tâm của nhân vật, mà còn truyền tải thông điệp về sự đoan trang và lòng hiếu thảo. Tám câu cuối của đoạn thơ đầy xúc động đã lưu trữ một phần tinh hoa của văn học Việt Nam.
Tuy Truyện Kiều đã ra đời cách đây hàng thế kỷ, nhưng giá trị của nó vẫn còn đọng và tồn tại đến ngày nay. Tác phẩm này đã trở thành một biểu tượng của nền văn học Việt Nam và là nguồn cảm hứng bất tận cho những ai yêu thích văn chương và nghệ thuật. Chúng ta có lý do để tin rằng trong tương lai, Trao duyên và Truyện Kiều vẫn sẽ được đọc giả trên khắp thế giới trân trọng và giữ gìn, giúp tạo nên một hình ảnh văn hóa và văn học Việt Nam đa dạng và phong phú.
10. Cảm nhận 8 câu cuối Trao duyên mẫu 10
Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều đã cho thấy bút pháp rất mực tài hoa của Nguyễn Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật. Qua trích đoạn, ta càng thấu hiểu, thương cảm cho cho số phận truân chuyên, bạc mệnh của Thuý Kiều. Tám câu cuối bài thơ là đoạn thơ đầy ấn tượng khi tái hiện đầy xót xa tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Sau khi cậy nhờ em thay mình chắp mối “duyên thừa” cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng mình. Đó là nỗi tuyệt vọng, khổ đau lên đến tột cùng khi phải buông tay với mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.
“Bây giờ trâm gãy gương tanKể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Trạng ngữ xác định thời gian “bây giờ” chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ “trâm gãy gương tan” để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.
Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc “muôn vàn ái ân” của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,… Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.
Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”
Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động “trăm nghìn gửi lạy” cùng lời tha thiết, cảm thán “Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi” là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?
Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:
“Phận sao phận bạc như vôi.Đã đành nước chảy hoa thôi lỡ làng”
Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận “đã đành” cho “nước chảy hoa trôi” cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.
Hai tiếng “Kim Lang” tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ “Kim Lang” kết hợp với thán từ “Ôi”, ” Hỡi” cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tám câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.
Trao duyên nói chung và tám câu cuối trích đoạn nói riêng đã góp phần mình vào sự thành công của tuyệt tác Truyện Kiều. Tin rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ vẹn nguyên giá trị lâu bền, được bao thế hệ đọc giả trân trọng và giữ gìn.
–
- Soạn bài lớp 10: Trao duyên
- Phân tích đoạn thơ Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trên đây VnDoc tổng hợp các dạng bài văn mẫu Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10, soạn bài lớp 10 và các tác giả – tác phẩm Ngữ văn 10 trong sách Văn tập 1 và tập 2.