1. Dàn ý phân tích 8 câu đầu Chinh phụ ngâm:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Cảm nhận về 4 câu đầu:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
– Căn phòng tưởng chừng rất rộng khi hai người cùng chung sống, nhưng trở nên tối tăm, chật chội khi chỉ còn người vợ cô đơn, khắc khoải nhớ chồng.
– Nỗi đợi người vợ tiễn chồng ra trận dường như đã trải qua bao kiếp người, nó phủ lên toàn bộ con người và tình cảm của kẻ chinh phu một màu u tối.
– Giọng thơ khoan thai, nhịp điệu chậm rãi khiến người đọc có cảm giác mình là nhân vật trữ tình. Hành động lặp đi lặp lại như nỗi nhớ cứ đầy lên “nuốt từng bước” Động từ “gieo” có phải là ý tưởng của tác giả về bước đi thê lương không? Tôi muốn đi bộ nhưng tôi vẫn đi bộ.
Không gian tĩnh mịch khiến tiếng bước chân càng nặng nề, hiu quạnh. Ngày lại đêm, chị vẫn cô đơn, nhớ chồng nơi miền biên ải xa xôi.
– “Ngoài rèm thưa thác rủ đòi phen” – bức rèm kéo lên kéo xuống thật buồn, nhưng dù thế nào đi chăng nữa, trái tim nàng vẫn chỉ có một hình ảnh, cho dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa.
– Nhưng sự chờ đợi ấy không chứng tỏ được niềm vui, dường như đã lâu lắm rồi “chim thước” chưa đến báo tin
Cảm nhận 4 câu cuối:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
– Đó là sự cô đơn, lẻ loi của cô ấy, cô ấy rất cần một người có thể chia sẻ, đồng cảm với tâm trạng của mình lúc này.
– Cô không có ai để tâm sự, để giải tỏa tâm trạng cô đơn, trong phòng chỉ có ngọn đèn.
– Nhưng liệu ngọn đèn vô tri có hiểu được tấm lòng chung thủy của nàng không, nàng chỉ biết chịu đựng nỗi đau cô đơn, đau đớn một mình.
– Hình ảnh ngọn đèn hiện lên cho thấy nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ
Kết bài: đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Phân tích 8 câu đầu của Chinh phụ ngâm hay nhất:
Chinh Phụ ngâm là một trong những đoạn trích hay nhất trong tác phẩm “ Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Đoạn trích như một khúc ca buồn về hoàn cảnh khó khăn, cô đơn của người chinh phụ khi chồng khuất núi nơi chiến trường xa. Đặc biệt, trong 8 dòng đầu của bài thơ, hình ảnh người chinh phụ hiện lên rõ nét với nỗi nhớ nhung, cô đơn, trống vắng và vô vọng.
Hình ảnh người bạn tri kỷ được nhà thơ Đặng Trần Côn tái hiện sinh động qua những hành động cụ thể.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Hành động “đi một mình” cùng với bước chân nặng nề, mệt mỏi “gieo từng bước” gợi những bước chân cô đơn, nặng trĩu, suy tư. “Ngồi rèm thưa” không gợi sự thư thái mà làm nổi bật sự trống vắng, bất an bên trong tâm hồn kẻ chinh phụ. Hành động buông màn rồi vướng vào đó được thực hiện một cách vô thức bởi trong tâm trí người phụ nữ là nỗi nhớ chồng nơi biên ải xa xôi. Nghệ thuật đảo ngữ “dạo hiên vắng” – “ngồi rèm thưa”, “trong màn” – “ngoài màn” kết hợp với các tính từ “vắng”, được đưa vào câu thơ càng làm nổi bật tình thế thậm chí. Nỗi cô đơn, lẻ loi của người đàn bà trong đêm khuya. Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc con người ta cảm nhận sâu sắc nhất nỗi buồn, sự đau đớn và mất mát. Có lẽ vì thế mà đã khuya mà người chinh phụ vẫn chưa thể ngủ yên giấc mà cứ thổn thức một nỗi nhớ nhung, bất an, buồn bã vì người chồng mình yêu đã ra đi không một tin tức.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng? Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
“Thước” là con chim báo tin vui. Người chinh phu khao khát chiếc móng chim cũng là mong tin tức bình an từ người chồng nơi chiến trường xa. Tuy nhiên, một sự thật đáng buồn, mọi hi vọng, hi vọng của kẻ đi chinh phục đều vô ích khi “đơn phương”. Đây cũng là nỗi lòng chung của biết bao kẻ chinh phu trong xã hội cũ, chiến tranh liên miên, người chồng ra trận bỏ lại người vợ với bao khát khao.
Trong không gian vắng lặng, người chinh phụ chỉ biết làm bạn với vật vô tri, nào là ngọn đèn dầu, nào là bằng. Nhưng những đồ vật vô tri vô giác ấy làm sao hiểu được những nỗi niềm chất chồng bên trong tâm hồn người phụ nữ ấy. Trong thơ ca trung đại, hình ảnh ngọn đèn dầu thường được dùng để diễn tả nỗi nhớ nhung của người con gái, người vợ, người yêu, người chồng. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh Vũ Nương ôm con bên ngọn đèn dầu khi nhớ về Trương Sinh hay nỗi nhớ da diết của người con gái với người mình yêu trong ca dao:
“Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt?”
Trong bài thơ “Trong rèm đèn có biết chăng?”, Đặng Trần Côn không chỉ dùng ngọn đèn để diễn tả nỗi nhớ da diết của người chinh phụ mà còn tượng trưng cho khoảng thời gian vô tình trôi qua, qua đó tô đậm nó. Câu hỏi tu từ “Đèn có biết chăng?” và lời trách móc vu vơ “ không biết” như một lời than thở đầy chán chường, mệt mỏi của một kẻ cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Các tính từ chỉ cảm: “bi thương”, “buồn bã” được đưa vào câu thơ với mức độ dày đặc thể hiện sự chân chất nhưng cũng đầy xót xa, lắng đọng của con người. Nỗi đau, nỗi buồn không thể diễn tả thành lời, cũng chẳng thể tâm sự cùng ai, người đi chinh phụ chỉ còn cách nén mọi cảm xúc vào lòng, để nó “gặm nhấm” trái tim của chính mình. Hình ảnh “đèn” đỏ rực như nỗi nhớ của người chinh phụ, khắc khoải đến tận cùng.
Bằng tài năng khắc họa xuất sắc diễn biến tâm trạng nhân vật và sử dụng hiệu quả các tính từ chỉ cảm xúc, nhà thơ Đặng Trần Côn đã tái hiện thành công những cung bậc cảm xúc phức tạp của người chinh phụ, đó là nỗi nhớ là sự cô đơn, trống vắng, những bất an, u uất và khát vọng hạnh phúc giản đơn, bình dị.
Hướng ngòi bút của mình đến số phận éo le của những kẻ chinh phu trong xã hội xưa, nhà thơ Đặng Trần Côn đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm với số phận trớ trêu và phê phán chiến tranh tội ác đã làm bao gia đình tan nát, hạnh phúc tan vỡ; bày tỏ sự trân trọng hạnh phúc chính đáng của người đi chinh phụ.
3. Bài phân tích 8 câu đầu Chinh phụ ngâm đạt điểm cao:
Dưới tài năng của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài hiếm có, giá chương, tư chất thông minh”, kiệt tác thơ chữ Hán “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn một lần nữa lên ngôi. Vào những năm 40 của thế kỷ 14, bão tố liên miên, loạn lạc khắp nơi, thị thiếp tiễn vợ ra trận… được dựng lại dưới những câu thơ, đặc biệt ở đoạn trích 8. Câu đầu của bài “Chinh phụ ngâm”.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hai câu đầu của đoạn văn là hình bóng khao khát của người chinh phụ. Hình ảnh đó được thể hiện qua các động từ “đi”, “mời”, “thác đổ”, “gieo từng bước” bởi nó tạo nên sự tương phản giữa vẻ thanh bình, nhàn nhã bên ngoài với sự khắc khoải, mệt mỏi trong lòng đếm từng bước chân. Hơn nữa, các tính từ “vắng” càng làm tăng thêm vẻ lẻ loi, thoáng qua của người thiếu nữ trong đêm. Như vậy, tác giả đã dùng ngoại cảnh để bộc lộ tâm trạng nhân vật.
Tiếp theo, kẻ chinh phục dường như nhìn ra bên ngoài để tìm kiếm một thông điệp đủ mạnh để trấn an:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chim thước là loài chim ngoại lai, thuộc về trời cao đất rộng. Chờ đợi tin tức từ người cai trị là vô vọng và mơ hồ. Từ phủ định “không” như một lời khẳng định về cái tuyệt đối không có âm thanh nào cả. Thế là, người đàn bà trở vào buồng trong, nói chuyện với ngọn đèn, tìm chút tình cảm, cho vơi nỗi cô đơn:
“Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng? Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Câu thơ làm ta liên tưởng đến hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ khi chàng chọn cách chỉ vào cái bóng trên vách mà nói đó là cha của con để người con vơi đi nỗi ân hận. Đó dường như là cách người phụ nữ gửi gắm nỗi nhớ nhung cho chồng mình. Gửi lòng mình vào ngọn đèn, người chinh phụ trong bài thơ chắc cũng đang nhớ chồng.
Ánh sáng như tô điểm thêm cho khoảng lặng cô đơn, suốt ngày chờ đợi và thổn thức suốt đêm dài. Nhưng ngọn đèn là vật vô tri vô giác, ngọn đèn không thể tâm sự cùng người phụ nữ nên nhân vật trữ tình lại càng “buồn” không nói nên lời. Khung cảnh “không nói nên lời” ấy như bất lực, nghẹn ngào. Đoạn thơ còn xuất hiện thêm hình ảnh “đèn ” – “bóng người”. Thay cho đèn, tác giả nói “hoa” để chỉ sự héo úa, dầu hao hụt, tương đương với cảnh người phụ nữ chờ mình héo úa, tuổi xuân trôi qua từng ngày. Từ sự chuyển động, ý thơ dường như lột tả sự bất động. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bên ngọn đèn dầu vẫn đọng lại cảm giác “xót xa”, “xót xa”. Nỗi buồn, cô đơn, lo lắng, nhớ nhung, bơ vơ, nghẹn ngào… tất cả như hòa quyện vào nhau, cuộn trào trong tiếng than thở “lòng thiếp riêng bi thiết” rồi nhạt nhòa “buồn rầu chẳng” và “khá thương” để yêu chính mình, từ thương hại đến tuyệt vọng.
Tóm lại, 8 câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – Đoàn Thị Điểm là tiếng nói thương tiếc cho số phận người phụ nữ trong chiến tranh và đồng cảm với nỗi khát khao đoàn tụ của họ. Cho đến lúc đó, lần đầu tiên có những trái tim chân chính có thể đồng cảm với những người phụ nữ nhỏ bé. Đó cũng chính là tinh thần nhân đạo, cao cả của tác giả.
4. Phân tích 8 câu đầu của Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:
Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, một nghệ sĩ hiếu học và tài hoa sống vào nửa đầu thế kỷ 18, là một kiệt tác trong văn học cổ điển Việt Nam – đã được chuyển thể thành tuyệt tác. Đoạn văn “ Chinh phụ ngâm” là sự thể hiện sâu sắc nhất tư tưởng nhân đạo và cảm hứng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Tám câu đầu của đoạn văn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng? Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Ngôi nhà và căn phòng giờ đây tối tăm và chật chội. Người vợ trẻ hình như đã đợi chồng từ lâu. Nàng luôn thấp thỏm chờ chồng, nỗi cô đơn dường như bao trùm lấy nàng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Cô dường như quên hết mọi thứ xung quanh mình. Nỗi cô đơn, lo âu trong tâm trí len lỏi, gặm nhấm cô, rồi nó thành hình qua bóng dáng lang thang, lững thững như người mất hồn. Nhịp thơ chậm rãi gợi cảm giác thời gian như đứng lại. Giữa không gian vắng lặng, tiếng bước chân dường như gieo vào lòng người một cảm giác lẻ loi, cô đơn. Dáng vẻ ủ rũ, buồn chán, gầy guộc của chị khắc sâu vào lòng em nỗi đau vì bơ vơ, lạc lõng, đáng thương. Cô biết phải làm sao đây khi ngày trôi qua, đêm kết thúc trong nỗi nhớ nhung vô vọng. Dừng chân đứng lại, tâm trạng bồn chồn, hạ rèm kéo rèm lên, một mình giữa đêm khuya.
Đã lâu rồi “bặt vô âm tín” không lá thư, không người ra vào. Nội tâm của nhân vật được miêu tả gần như trọn vẹn từ hình dáng bên ngoài đến nội tâm rối rắm. Đáp lại sự mong mỏi của cô chỉ là sự im lặng, sự im lặng đến lạnh người.
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối Muộn chứa đầy hãy thổi thành cơm.”
Trong sự cô đơn và lẻ loi, người chinh phụ muốn có người đồng cảm và chia sẻ nỗi niềm của mình. Có ai phù hợp với cảnh chia tay buồn này không?. Phải chăng tác giả đã mang ánh sáng đến cho cô với hi vọng xua tan nỗi cô đơn trong đêm hay trái tim tan nát của cô? Nhưng chúng ta còn thấy gì sau hình ảnh đó? Liệu ngọn đèn khuya với hình bóng cô gái lẻ loi giữa sân trường có thể xua đi nỗi cô đơn của màn đêm? Hay là đau xót hơn trước hình ảnh đáng thương ấy. Ánh sáng là để thể hiện không gian rộng lớn và sự cô đơn của con người. Thủ pháp này khá phổ biến trong thơ cổ, có tính biểu cảm cao: “Đèn nhớ ai mà đèn chẳng tắt”. Hình ảnh ngọn đèn ở đây được nhắc đến liên tiếp trong ba câu thơ. Nhìn đèn cháy được năm tiếng, dầu đã cạn, bấc đã tắt, nàng chợt nghĩ đến hoàn cảnh của mình mà trong lòng rưng rưng nước mắt xót xa, ân hận. Nàng thấy tiếc cho ngọn đèn và sau đó Nàng thấy tiếc cho trái tim của mình.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Về nghệ thuật, với thể thơ bảy chữ, lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, bài thơ đã thể hiện một cách tinh tế những sắc thái cảm xúc khác nhau về nỗi cô đơn, sầu muộn của người chinh phụ khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Về nội dung, đoạn trích còn thể hiện tình yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với khát vọng hạnh phúc chính đáng của kẻ chinh phu, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Qua bài thơ, ta cảm nhận được nhạc điệu hấp dẫn trong bài thơ cũng như khả năng tuyệt vời của tiếng Việt trong lĩnh vực trữ tình. Đoạn thơ giàu giá trị nhân văn, thể hiện sâu sắc, cảm động lòng căm thù chiến tranh phong kiến và niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của kẻ chinh phu giữa bộn bề nhiễu nhương của xã hội cũ.