Bài văn Phân tích bài Tràng Giang của Huy Cận
MẹoPhương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ đạt điểm cao
I. Dàn ý Phân tích Tràng giang (Chuẩn)
1. Mở bài:Giới thiệu tác giả, tác phẩm.2. Thân bài: a. Nhan đề và lời đề từ:– Nhan đề “Tràng giang”:+ Là từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.+Điệp vần “ang” là vần mở, có độn vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh một con sông vừa rộng vừa dài.- Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”: gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn.b. Bức tranh thiên nhiên buồn vắng, ảm đạm và nỗi cô đơn của tác giả (Khổ 1, 2, 3)* Khổ 1: – Hình ảnh “tràng giang” là một con sông vừa rộng lại vừa dài, lòng sông lại hết sức yên tĩnh, sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt.- “Buồn điệp điệp”:+ Những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la.+ Diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm.- Hình ảnh “con thuyền xuôi mái nước song song”:+ Gợi sự lẻ loi, phó mặc cho dòng đời xô đẩy.+ Hình ảnh đối lập với không gian sông nước mênh mông: gợi sự nhỏ bé, lẻ loi.- “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”: sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót.- “Củi một cành khô lạc mấy dòng”:+ Đảo ngữ: nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định.+ Đó là tâm sự, nỗi niềm về thân phận của tác giả, hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc.* Khổ 2: – “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”:+ Các từ láy: “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót” diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật.+ Đảo ngữ “lơ thơ”: nhấn mạnh cảm giác thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo.- “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”: được hiểu theo nhiều cách+ Cách 1: Câu hỏi mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người.+ Cách 2: Diễn tả âm thanh đâu đó vang lên tiếng chợ chiều.+ Cách 3: Đâu có, không có âm thanh vãn chợ chiều.→ Dù hiểu theo cách nào thì ý thơ cũng khắc họa sự hoang vắng của không gian.- “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”: khoảng cách xa xăm giữa trời và đất được thể hiện đầy ấn tượng bằng cụm từ “sâu chót vót” vừa diễn tả chiều cao, vừa diễn tả độ sâu.- “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”: cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như chính lòng tác giả.* Khổ 3:– “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”+ Lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận, trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra lối đi đúng đắn, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực.+ “Hàng nối hàng: cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước.- Nghệ thuật phủ định: “không một chuyến đò”, “không cầu”: không có thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người. c. Nỗi lòng yêu nước, yêu quê hương sâu sắc (Khổ 4)– Bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng:+ Những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo thành những quả núi bạc.+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện độc đáo: chim nghiêng cánh cũng là lúc bóng chiều sa.- Tâm trạng của nhân vật trữ tình:+ “Lòng quê dợn dợn vời con nước”:+ Những đợt sóng lan xa.+ Khắc họa cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ.+ “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”: Nỗi nhớ quê tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn” mà lòng vẫn đượm nỗi nhớ mong sâu nặng.d. Đánh giá– Về nội dung: Bài thơ khắc họa bức tranh thiên nhiên buồn sầu, hoang vắng, qua đó bộc lộ nỗi buồn cô đơn cùng tình yêu đối với quê hương, đất nước.- Về nghệ thuật:+ Bài thơ là sự kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.+ Sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, các biện pháp tu từ đặc sắc.3. Kết bài:Khẳng định giá trị tác phẩm, tài năng của tác giả.>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tràng giang
1. Phân tích Tràng giang, mẫu số 1 (Chuẩn):
Huy Cận được biết đến là một nhà chính trị, nhà thơ lớn của dân tộc. Với vai trò “người thư kí của thời đại”, ông đã thể hiện nỗi niềm sầu muộn của mình trước cảnh đất nước, nỗi cô đơn của kiếp người nhỏ bé qua vô số tác phẩm giàu ý nghĩa. Trong đó, không thể không nhắc tới “Tràng giang” – một thi phẩm nổi tiếng vượt thời đại với cấu tứ và hình ảnh thơ độc đáo.
Ngay từ tiêu đề “Tràng giang” – sông dài, người đọc có thể thấy được dòng cảm xúc lan tỏa, tuôn dài ra trong thầm lặng. Dòng chảy của con sông như ẩn dụ cho dòng chảy trong tâm hồn nhà thơ. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã thể hiện cảm xúc chung của tác giả trong toàn bài. Đó là thương nhớ, là bâng khuâng. Nỗi nhớ bao trùm giữa “trời rộng” và “sông dài”.
Xuyên suốt tác phẩm, các hình ảnh được sắp xếp dựa trên sự đối lập giữa một bên là thiên nhiên bao la, kì vĩ: “trời rộng”, “sông dài”, “mây cao”, “núi bạc”, “bờ xanh”, “bãi vàng”,… Bên còn lại là những sự vật nhỏ bé, trơ trọi, cô đơn: “con thuyền”, “một cành củi khô”, “cánh bèo”,… mang tính chất ngụ ý, tượng trưng. Từ sự đối lập này, tác giả đã gợi sự liên tưởng về những thân phận con người bé nhỏ, bơ vơ giữa cuộc đời rộng lớn. Nhân vật trữ tình mong muốn được giao tiếp với thế giới nhưng bản thân lại không thể làm được. Càng tìm kiếm, ông càng thất vọng khi phát hiện ra xung quanh mình rộng lớn, lạnh lẽo nhường nào. Trong cả bài, các hình ảnh đều được đặt trên “lộ trình” vận động: từ biểu đạt cái hữu tình đến biểu đạt cái vô hình. Cái hữu tình ở đây chính là nỗi buồn, được diễn tả tăng dần. Ở khổ thơ đầu tiên, tác giả chỉ miêu tả những điều gì nhìn thấy trước mặt rồi mới phóng tầm mắt ra xa dần. Càng xa, nỗi buồn càng được phóng đại bởi cảm giác bơ vơ, lẻ loi rồi đến cuối cùng, cảm xúc đó không được gọi tên mà chỉ còn thấy “dợn dợn” một nỗi nhớ nhà trong lòng. Vậy nên, có thể khẳng định rằng tứ thơ của “Tràng giang” dựa vào sự vận động của hệ thống hình ảnh trong từng khổ thơ và toàn bài.
Ngoài ra, trong bài thơ, tác giả còn sử dụng một loạt các biện pháp tu từ độc đáo để thể hiện những hình ảnh mới mẻ, khác biệt. Đảo ngữ “củi một cành khô” nhấn mạnh sự bé nhỏ, lạc lõng của sự vật. Những từ láy kết hợp với từ chỉ cảm xúc như “buồn điệp điệp”, “nước song song”, “gió đìu hiu”, “lớp lớp mây cao”, “lòng quê dợn dợn” giúp tăng sắc thái biểu cảm cho những sự vật lên một tầng cao hơn trong diễn đạt. Tác giả còn có cách kết hợp ngôn ngữ cực kì táo bạo, lấy tính từ chỉ chiều cao để miêu tả chiều sâu, tạo ra từ “sâu chót vót” khiến cho sự rộng lớn của không gian càng tăng lên gấp bội. Thêm nữa, các câu thơ trong bài còn có thể ngắt nhịp khác nhau, cho độc giả thấy được sự đa nghĩa, ẩn ý, nhiều màu sắc trong tứ thơ. Ví dụ như câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” khi ngắt nhịp 1/3/3 là một lời phủ định rằng không có tiếng vãn chợ ở xung quanh đây đâu. Khi câu thơ này được đọc theo nhịp 4/3 lại trở thành câu hỏi về âm thanh nào đó không rõ ràng vang vọng trong không gian.
Góp phần không nhỏ cho sự thành công của “Tràng giang” là sự kết hợp của những thi liệu truyền thống, quen thuộc và các điển tích, điển cố nổi tiếng. Về mặt hình ảnh, bài thơ đã miêu tả cảnh rất quen thuộc trong đời sống con người Việt Nam. Đó là sông, thuyền, bèo, nước, làng xa bên sông, núi, mây bạc, cánh chim trong buổi hoàng hôn,… Đây đều là cảnh gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của mỗi con người trong thời đại đó. Từ ngữ trong bài cũng được lấy cảm hứng từ những câu thơ nổi tiếng như từ “đìu hiu” có cảm xúc tương tự câu thơ “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” hay từ “đùn” cũng giống nghĩa biểu đạt trong câu thơ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Câu thơ “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” cũng được bắt nguồn từ cảm hứng trong bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Việc sử dụng các thi liệu truyền thống nằm trong ý đồ cấu tứ và chiến lược tổ chức văn bản của nhà thơ. Với sự xuất hiện của các thi liệu này, hướng vận động của hệ thống hình ảnh trong bài sẽ được xác định rõ. Mỗi hình ảnh sẽ ám gợi về một điều gì đó vô hình hơn bên ngoài nó và hướng dẫn người đọc hướng tới những suy ngẫm sâu sắc về tình thế tồn tại của con người, về bản chất cuộc sống.
Mỗi hình ảnh thơ trong “Tràng giang” đều có thể trở thành biểu tượng, hàm chứa nhiều ý nghĩa, gợi nhiều cảm nhận tùy theo trải nghiệm của người đọc. Bài thơ đem đến khung cảnh sông nước quen thuộc, từ đó hướng người đọc tới những suy tưởng về mối quan hệ giữa cá nhân con người với xã hội, về sự tương quan giữa con người nhỏ bé và vũ trụ rộng lớn.
Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.”
Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.
Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều
Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vótSông dài trời rộng, bến cô liêu”
Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở.
Phân tích bài thơ Tràng giang để thấy được tâm sự của nhà thơ Huy Cận về cuộc đời, thời cuộc
Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.
Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.
Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.
Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:
“Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.
–
Taimienphi.vn cũng đã tổng hợp rất nhiều bài văn mẫu lớp 11 hay nhất như bài Cảm nhận về tình yêu cuộc sống trong đoạn thơ: Của ong bướm….mới hoài xuân, Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu…. Các em có thể tham khảo để chuẩn bị bài tốt nhất.
3. Phân tích bài Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận, mẫu số 3 (Chuẩn)
Cù Huy Cận (1919-2005), bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương.
Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”
Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng.
Top những bài Phân tích Tràng giang hay nhất
Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi.
Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ bẫng, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu”
Sang đến khổ thơ thứ hai cảnh sông nước mênh mông đã được thay thế bằng một khung cảnh khác, không gian được thu hẹp hơn, thế nhưng dường như nỗi buồn lại càng trở nên đậm đặc hơn, bao trùm kín kẽ từng cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc trong Đường thi khi sử dụng các từ láy vần liên tiếp “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật. Ở câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”, rõ ràng những cồn cát đã nhỏ, ấy thế mà còn rời rạc, thưa thớt, dường như chẳng hề có chút kết nối, thêm tiếng gió buổi chiều hôm mỏng nhẹ thổi lướt qua càng khiến khung cảnh thêm tịch mịch, buồn bã.
Giữa cảnh tượng cô liêu, rợn ngợp ấy, Huy Cận đã không kiềm được phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, để mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người, dù là nhỏ nhất chỉ để xua tan bớt đi cái nỗi cô đơn, trống vắng đang bủa vây. Đổi một cách nhìn khác, cái tiếng chợ chiều làng xa ấy, lại càng làm nổi bật nên sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng lọt vào tai của người lữ khách bên sông. Điều đó cũng đủ thấy rằng cảnh thiên nhiên và cảnh lòng người đang ở mức cô tịch, vắng vẻ đến độ nào.
Đến câu “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, ta dễ dàng mường tượng ra khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như càng kéo giãn thêm cái độ rộng dài của không gian. Mấy từ “sâu chót vót” vốn chẳng hợp lý khi đưa vào để miêu tả độ cao của trời xanh, thế nhưng trong Tràng giang thì chỉ có mấy từ ấy mới diễn tả được sâu sắc khoảng cách đất trời, làm nổi bật lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn bao la. Và để khi rời ra tiếng chợ chiều, Huy Cận nhìn lại một lần nữa chỉ còn cảnh “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”, cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như chính lòng tác giả.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Khổ thơ thứ 3 càng bộc lộ rõ hơn nỗi niềm và hoàn cảnh của tác giả, cảnh sông nước mênh mông, trời cao, đất xa dần được thu lại bằng hình ảnh “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Bèo vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ám chỉ những kiếp người lênh đênh, vô định, mặc cho dòng đời đẩy đưa, trong thơ Huy Cận hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận, trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra một lối đi đúng đắn, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực. Mấy từ “hàng nối hàng” chính là cái hay trong thơ Huy Cận, ý chỉ số phận bèo dạt như ông trong xã hội lúc bấy giờ không phải hiếm mà là cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước, có lòng mà không có sức, bế tắc và đau xót vô cùng.
Đến câu thơ tiếp “Mênh mông không một chuyến đò ngang” không chỉ là bộc lộ cảnh tượng hoang vắng, quạnh quẽ của dòng sông, bộc lộ nỗi cô đơn trong lòng, mà còn chính là để nói lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ. Giữa cảnh tăm tối ấy, lữ khách muốn tìm một con thuyền, một ngọn lửa sáng để cùng nhau đấu tranh giải phóng dân tộc, thì nhìn lại dòng sông lại im ắng “không một chuyến đò ngang”, không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi xót xa cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ Huy Cận vẫn phải tự ôm lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, chứ không còn một cảnh tượng nào khác, một con người nào khác.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Ở khổ thơ cuối, vẻ đẹp cổ điển, lãng mạng trong phong cách sáng tác của Huy Cận càng được thể hiện rõ ràng trong khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, cùng những chất liệu thơ quen thuộc trong Đường thi. Đó là nét cổ điển với bút pháp chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp dày đặc, đầy nội lực, mạnh mẽ với từ “đùn” khiến cho ngọn núi phủ một màu trắng ngà. Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông như được dát bạc, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ hiếm có, đồng thời cũng thể hiện sức sáng tạo trong thơ ca của tác giả, với những liên tưởng thú vị. Và trên cái khung cảnh tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, lạc lõng “Chim nghiêng cánh nhỏ: Bóng chiều sa”, là chim nghiêng cánh để bóng chiều sà xuống bao trùm khắp không gian, hay là bóng chiều đổ xuống làm nghiêng đi cánh chim nhỏ bé, chao liệng, chất chứa nhiều nỗi cô đơn.
Có thể nói rằng hình ảnh cánh chim luôn là một thi liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển, là dấu hiệu của buổi hoàng hôn, của buổi chiều tà, mang đến cho con người những nỗi bâng khuâng, bất định trong tâm tưởng khi nhìn bóng chim bay lưng trời mà chưa thấy một điểm dừng nhất định.
Hai câu thơ cuối cùng dù vẫn dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại đậm tính hiện đại, khi trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê nhà tha thiết của tác giả. “Lòng quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, trước những cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế nhưng bản thân người thi sĩ lại cô đơn, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa. Trước những nỗi sầu bi bất định như thế, Huy Cận không khỏi nhớ nhà, nhớ quê nơi đã sinh ra, cho lữ khách hơi ấm yêu thương, để vơi bớt đi những quạnh quẽ, chua xót trong lòng. Nỗi nhớ ấy tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn”, ánh lửa bữa cơm chiều từ những căn bếp mà lòng vẫn đượm một nỗi nhớ mong sâu nặng. Ấy rồi mở rộng ra nỗi nhớ quê đau đáu của Huy Cận lại diễn ra khi chính bản thân tác giả đang đặt chân ở mảnh đất quê mình, ta mới hiểu được rằng nỗi nhớ quê chính là lòng yêu nước thầm kín, Huy Cận nhớ về những ngày đã xa, khi đất nước còn yên ấm, tươi đẹp, khác hẳn với hiện thực đau thương, buồn bã. Mà trước cảnh tượng ấy, ông lại chỉ có thể bất lực trước thời thế rối ren, luẩn quẩn trong chính sự bế tắc của tâm hồn với những nỗi sầu bi bất định, nghe thật chua xót.
Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng.
4. Phân tích bài Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận, mẫu số 4 (Chuẩn)
Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một “hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
“Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không sử dụng “trường giang” là dùng là “tràng giang” với hai vần “ang’ – hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cảm nhận của người đọc hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề từ của tác phẩm “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ đó chính là bức tranh thiên nhiên với trời rộng, sông dài và cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ đó chính là nỗi nhớ, niềm bâng khuâng cùng nỗi buồn như lan tỏa vào trong mọi cảnh vật.
Bài văn Phân tích bài thơ Tràng giang tuyển chọn
Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng
Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.
Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ. Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật.
Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng, thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây “không một chuyến đò”, “không một cây cầu”. Dường như, ở nơi đây chẳng có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau. Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau – một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.
Nếu trong ba khổ thơ trên, tác giả vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng với nỗi buồn, cô đơn thì trong khổ thơ cuối cùng, tác giả đã thêm vào cho bức họa thiên nhiên ấy một gam màu mới và ẩn sau đó là nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu thơ đầu khổ thơ cuối đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc. Dường như chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên một bức tranh thật đẹp. Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ. Dường như, sự đối lập giữa cái nhỏ bé của cánh chim chiều với sự rộng lớn, hùng vĩ của “lớp lớp mây cao” càng làm không gian như rộng hơn và nỗi buồn, sự cô đơn của nhà thơ cũng thế tăng lên. Và để rồi, trước không gian ấy, trong lòng nhà thơ hiện lên nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng. Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ và tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng thường gặp ở tầng lớp tiểu tư sản thời bấy giờ.
Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
Xem thêm
Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy CậnPhân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giangPhân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giangPhân tích Tràng giang để làm rõ lòng yêu tạo vật thiên nhiên trong tâm trạng cô đơn thẳm sâu và trong sáng của Huy Cận
5. Phân tích bài Tràng giang, mẫu số 5 (Chuẩn)
Phân tích Tràng giang có dàn ý
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Phân tích Tràng giang (Huy Cận) bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Soạn bài Tràng giang và cùng với phần Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống để có thêm hiểu biết về các tác phẩm văn học.
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-trang-giang-huy-can-41118n.aspx