TOP 12 bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi mà Download.vn giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 10. Với 12 mẫu phân tích Bình ngô Đại cáo đoạn 2 giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần phân tích.
Đoạn 2 Bình ngô đại cáo với những lý luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của thực dân Pháp. Bên cạnh đó để hiểu rõ hơn về nội dung tác phẩm các bạn xem thêm phân tích đoạn 1 Bình ngô Đại cáo.
Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Giới thiệu sơ lược về tác giả,tác phẩm, đoạn cần phân tích
- Nêu qua hoàn cảnh lịch sử tạo nên tác phẩm
2. Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Có thể khẳng định đoạn đầu là tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ là cơ sở để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tường này xuất phát từ thực tiễn tình hình của đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân nghĩa chính là chống quân xâm lược, có như vậy mới vạch trần được luận điệu xảo trá của chúng được tác giả nêu lên ở đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về tội ác của Giặc Minh. Tố cáo những chủ trương cai trị tàn sát của giặc Minh:
- Tàn sát người vô tội
- Bóc lột dã man, đánh thuế, phu phen,…
- Hủy diệt cả môi trường sống
⇒ Tội ác tày trời, một lũ giặc vô nhân đạo
– Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thể hiện được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:
- Độc lập chủ quyền của chúng ta có tính chất thiên nhiên, từ trước, vốn có
- Khẳng định chủ quyền như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, hào kiệt trước này chưa bao giờ thiếu.
- Nền văn hiến của ta thì đã có từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng đều tìm cách để phủ định sự thật hiển nhiên này.
– Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu bịp bợm của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của chúng. Chúng lược chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là để cướp nước ta
– Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là vô cùng độc ác và dã man.
– Trước nỗi khổ, sự khó khăn cùng cực của nhân dân, tác giả vô cùng đau đớn, cả bài là sự căm giận tội ác của địch, đồng cảm và xót xa trước những đau thương mà nhân dân ta phải chịu đựng.
-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự dơ bẩn của giặc nhiều bằng nước Đông Hải. Dùng cái vô hạn nói cái vô hạn, tội ác của chúng những cái vô cùng cũng không thể miêu tả, không thể chứa đựng được hết.
3. Kết bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Nêu lại khái quát ý nghĩa của tác phẩm và cảm nhận của bản thân
- Khẳng định lại tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và sự tài tình của Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù khẳng định chủ quyền cho dân tộc
Xem thêm: Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
Sơ đồ tư duy đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Bình ngô Đại Cáo đoạn 2
Nguyễn Trãi là người sống vì dân, vì nước, cả cuộc đời ông luôn là một con người có lòng nhân hậu, đau đáu thương người, ông vô cùng tài giỏi khi đã làm rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, đồng thời còn kể rõ những hành động độc ác của bọn giặc trên dân tộc ta, đó được xem là định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây họaBọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số những chính sách, chiến lược khác nhau.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ “phù Trần diệt Hồ” để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán hận ngập trời, “Bọn gian tà bán nước cầu vinh”, bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đã thế còn liên tiếp bịp bợm “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế”, gieo rắc thù oán hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung thaAi bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: “Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”, ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
“Bình Ngô đại cáo” tác phẩm nổi tiếng của chính trị gia, nhà văn Nguyễn Trãi. Tác giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, nhằm thay lời Lê Lợi tuyên cáo việc giành chiến thắng giặc Minh. Bài cáo không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ bán nước và cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo để thấy rõ hơn điều đó!
Ở đoạn đầu, tác giả tự hào, hãnh diện, bố cáo với đất trời, thiên hạ về lịch sử oai hùng dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ của các triều đại Bắc Nam, mỗi nơi hùng cứ một phương. Ông cho rằng người hào kiệt nơi nào cũng có, thời nào cũng có. Cớ sao phải xâm chiếm, cướp bóc lẫn nhau? Nhờ lối dẫn dắt đó mà sang đến đoạn hai, tác giả đã trình bày ngay lí do dẫn đến cuộc binh đao giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây loạnBọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo mới thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi, nhưng tác giả đã lột tả được toàn bộ bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những người lãnh đạo, đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè chia phái, khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài giặc Minh lăm le dòm ngó bấy lâu thừa cơ gây loạn. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước và cướp nước đã ép buộc Đại Việt vào thế phải binh đao. Nguyễn Trãi là nhà chính trị nên một lập luận ông nêu đều vô cùng sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này cho thấy rõ, âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Vì lí do đó mà Đại Việt lâm nguy. Lũ bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây ra bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm được nước ta, giặc Minh đô hộ Đại Việt trong suốt hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc, tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…………………Nặng nề những nỗi phu phenTan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến những cảnh xót xa của nhân dân, chính trị gia có trái tim nhân ái Nguyễn Trãi đã khẳng khái khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Câu thơ như vừa thể hiện nỗi đau thấu tim gan của tác giả vì thương dân, vừa như lời đay nghiến quân giặc. Những hành vi bạo tàn của chúng không phải là do con người gây ra nữa. Chúng dối trời, lừa dân. Chúng không chỉ vơ vét của cải, sức người sức của mà còn hủy hoại cả môi trường, tàn phá cả những con côn trùng cây cỏ. Hơn thế, chúng thẳng tay tàn sát dân đen, những con người vô tội, thiện lương. Những con người quanh năm gắn bó ruộng đồng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy mà chúng cũng giày xéo không tha. Với lối liệt kê hàng loạt, liên tiếp những hành động bào tàn của giặc, tác giả như đang tuôn trào bao cảm xúc giận giữ cảm thù. Xúc cảm ấy cũng là xúc cảm chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên để đấu tranh, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, càng thấy sự khéo léo trong cách sử dụng biện pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc tả để vạch mặt tội ác thâm độc của quân cướp nước. Có sống giữa thời ấy, có lớn lên trong cảnh bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc chẳng khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.
Một lần phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo là một lần độc giả cảm thấy rùng rợn trước cảnh tượng tang của người dân Đại Việt năm xưa. Tưởng như chỉ là cảnh trong các bộ phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, lịch sử ghi chép.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!Lòng người đều căm giận,Trời đất chẳng dung tha”
Sự độc ác tày đình của quân xâm lược không chỉ khiến dân chúng oán thán mà còn khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, đến đại dương cũng không rửa sạch mùi dơ bẩn, đến đất trời cũng không thể dung tha. Với lối dùng vế đối cân xứng,”độc ác- dơ bẩn”, “trúc Nam Sơn- nước Đông Hải”, “lòng người- trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật vô tri vô giác là nhiên nhiên vào để khẳng định việc trà đạp lên mạng sống của người khác là tội không thể tha. Ông càng chứng tỏ rằng, không riêng gì con người mà mỗi loài sinh ra trong cõi đời đều có quyền được sống.
Có thể nói, khi phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Ở đó có những đau thương mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Với lời văn đanh thép, hùng hồn, tuôn trào trong từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt gao tội ác của quân giặc.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn chương chính là cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” ở đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược mà đến hàng năm sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh thép, rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây họaBọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kếGây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi mà ta nhận ra được bộ mặt bất nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công lí không bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trờiNặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ, đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc :
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăngNhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi, căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy căm phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán than, mà khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem lũ cuồng quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kì lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa, thú tính ác độc của quân xâm lược.
Cảm nhận đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả và đặc biệt vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 2 của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo, lên án những tội ác mà quân Minh xâm lược đã gây ra cho ta. Bình Ngô đại cáo được coi là một áng thiên cổ hùng văn nổi tiếng lẫy lừng về việc ghi chép tội ác của giặc Minh. Tác phẩm được viết khi quân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến với quân Minh, điều đó cho thấy rằng tình yêu dành cho đất nước luôn đặt lên hàng đầu và sự căm thù giặc được thể hiện rõ nét trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây họaBọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh khi xâm lược nước ta đã nghĩ ra những mưu kế đê hèn, lợi dụng tình thế việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để thừa thế xông lên xâm lược vào nước ta. Chính tình thế loạn lạc nên quân Minh đã lợi dụng điều đó để thực hiện những âm mưu từ lâu đã định trước. Không chỉ ngày một ngày hai, quân Minh đã thực hiện chính sách khai phá nước ta trong gần hai mươi năm trời. Mục đích của chúng là muốn xóa bỏ những gì mà đất nước ta có là văn hóa, là lịch sử nước nhà. Ngay cả những đứa trẻ tuổi cắp sách đến trường mà chúng cũng không buông tha, điều đó cho thấy rằng quân Minh vô cùng tàn độc và hung bạo.
Nhưng quân dân ta chưa bao giờ đầu hàng, những tháng ngày dài đằng đẵng, có mệt mỏi, có gục ngã nhưng vẫn đứng lên để chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn cai trị đất nước ta, chúng muốn thay đổi chính sách và muốn đất nước ta phải phục thù. Càng về sau, sự tàn ác của quân Minh càng được thể hiện rõ ở việc chúng bắt đầu bóc lột sức người, thậm chí còn đánh đập, tàn phá luôn cả thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tànVùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân vô tội nhỏ bé thấp hèn luôn phải chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của quân giặc. Họ càng nhỏ bé, càng không có chỗ đứng trong xã hội thì càng bị quân Minh tấn công, áp bức. Tội ác mà quân giặc gây ra ngay cả đất trời cũng không thể dung tha. Hai câu thơ như khẳng định mạnh mẽ một lần nữa những tội ác mà quân Minh gây ra và đây cũng chính là lời cáo trạng về tội lỗi của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, nước Đông Hải đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích để nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ nhìn thấy cái trước mắt mà không nghĩ về hậu quả sau này. “Trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” đã được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định tội ác của quân Minh to lớn chẳng thể nào liệt kê ra hết được. Chúng không bao giờ biết yêu thương và có tình yêu thương trọn vẹn, ngay cả con người mà chúng cũng có thể hủy hoại thì thiên nhiên xung quanh đã là gì. Chúng tham lam, ích kỷ để rồi có những gia đình đã không còn trọn vẹn các thành viên.
Chúng khiến cho bao người phải khổ sở, đất nước phải sống trong sự loạn lạc ngày qua ngày mà không phút nào được bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê cũng nhiều hình ảnh, dẫn chứng sinh động để người đọc thấy được tội ác tày trời của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết của đoạn trích là một lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung thaAi bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của quân Minh gây ra cho đất nước ta đếm không xuể, chính chúng đã khiến ta rơi vào cảnh nước mất nhà tan nên không bao giờ có thể tha thứ. Với giọng văn đanh thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự uất hận không chỉ của tác giả mà còn của nhân dân ta ở thời kỳ đó dành cho quân Minh.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã mang đến một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu nước của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốc liệt nhất, dân tộc ta đã không bao giờ gục ngã, họ đã cùng nhau đoàn kết để chiến thắng kẻ thù, mang lại vẻ vang cho nước nhà.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây họaBọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nhưng với tinh thần đoàn kết, tình yêu đất nước thì chúng đã không xâm chiếm được nước ta. Lịch sử đã ghi lại tội ác của giặc Minh và đại cáo Bình Ngô lại một lần nữa tố cáo tội ác của chúng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động dã man của chúng. Chúng vơ vét hết mọi tài sản – không những bao gồm vật chất, sức người, sức của dân ta mà chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, tàn hại cả giống côn trùng và cả cây cỏ. Hơn những thế, chúng còn tàn sát con người mà không hề biết ghê tay:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tànVùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người nhỏ bé tận cùng dưới đáy của xã hội. Họ là nạn nhân của tội ác mà quân giặc đã gieo rắc lên bờ cõi của dân tộc ta. Chắc hẳn hai câu thơ được viết nên bởi máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung thaAi bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Nói tóm lại, đoạn thơ này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh trong hai mươi năm trên mảnh đất Việt.
Để đảm bảo tăng cường tính thuyết phục lại vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương. Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen và kết hợp hài hòa giữa những hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh mang tính cụ thể, sinh động.
Như vậy, bằng tài và tâm của mình. Nguyễn Trãi đã khiến cho người đọc thấy được đây là một tác phẩm đáng tự hào và cần được người đời sau coi trọng, tôn vinh.
Bài làm mẫu 2
Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 sau Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm xuất sắc mà ở đó ta có thể thấy được tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân tộc cùng với tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, tác phẩm đã mang đến cho người đọc những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó có một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh những năm tháng đô hộ hộ nước ta là phần có vai trò quan trọng trong bài cáo, cần lưu tâm để càng thấm thía hơn nỗi đau mất nước những năm tháng đã qua.
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ “phù Trần diệt Hồ” để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán hận ngập trời, “Bọn gian tà bán nước cầu vinh”, bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đã thế còn liên tiếp bịp bợm “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế”, gieo rắc thù oán hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
“Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.”
Nhưng những thứ quý hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không thấy xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng còn bắt nhân dân ta phải tìm cả những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi chẳng bắt được mà còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ôi thật xót xa cho cảnh khốn khổ tột cùng! Hậu quả để lại là môi trường liên tiếp bị hủy hoại tàn phá, chim muông cây cỏ cũng chẳng còn chỗ nương thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang yên ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan tác cả, còn đâu chốn làng quê yên bình, đẹp đẽ, còn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra đồng, mất hết rồi.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: “Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”, ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Bài làm mẫu 3
Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công nhận, đồng thời là nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, loạn lạc – nhà Trần suy yếu, nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống xuất phát từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao không tả, chẳng những là mưu sĩ với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nước nhà, điển hình là hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những là áng thiên cổ hùng văn về tư tưởng tự chủ tự cường của dân tộc mà còn là bản cáo trạng luận tội giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng:
“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn hai của tác phẩm với những lý luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng.
Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân nghĩa, luân lí mà giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn và quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý chí dân tộc, tinh thần chiến đấu và âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa dân tộc ta thành người Hán và vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính vì lẽ ấy mà tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong tác phẩm để đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.
Chính sử Việt Nam chép rất rõ về những chính sách cai trị vô cùng thâm độc trong ngót hai mươi năm đô hộ nước ta, song phần nhiều đều biên soạn dựa theo những bản ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi mưu sĩ họ Nguyễn là người trực tiếp sống và chiến đấu trong giai đoạn nước ta bị giặc Minh xâm lược. Từ đó có thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo hết sức xác thực và giàu tính chiến đấu. Qua tác phẩm, tác giả đã tố cáo tội ác dã man của bè lũ xâm lược và bán nước:
“…Vừa rồi:Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây họaBọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Từ đây, từng câu từng chữ trong tác phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, và sự xảo trá, “mượn gió bẻ măng” và nham hiểm của giặc Minh. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kếGây binh kết oán trải hai mươi năm…”
Chính từ đó, người đọc thấy rõ sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa và xảo quyệt không lường của bọn xâm lược:
“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trờiNặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Chung quy lại, mục đích duy nhất mà giặc Minh hướng đến khi gót giày chúng dẫm lên lãnh thổ Đại Việt là đô hộ và cai trị, âm mưu xóa sổ và thôn tính nước ta, vì lẽ đó nên những điều ngụy biện của chúng chẳng thể dối gạt nhân dân Việt Nam, và tội ác, thủ đoạn của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Sau khi chỉ rõ âm mưu và sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả bắt đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Không từ thủ đoạn, quân xâm lược tàn sát người vô tội chẳng những nhằm thỏa mãn thú tính và bản chất hung tàn của chúng mà còn âm mưu diệt chủng dân nước Nam, ép những người không phục tùng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với những cuộc đấu tranh chống lại sự tàn độc của lũ xâm lược, chúng chẳng ngại ngần dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. CHưa hết, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú vui xa hoa vô lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồngKẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độcVét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăngNhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo và vô luân lý của giặc Minh gây nên. Không dừng lại ở đó, quân xâm lược còn thi hành hàng loạt biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động, vắt kiệt sinh khí của nước ta, đồng thời tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:
“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏNheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…”
Rồi thì:
“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừaNặng nề những nỗi phu phenTan tác cả nghề canh cửi…”
Tất cả những tội ác của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi, rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ hùng bạn với người dân nhỏ bé bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”
Bại hoại nhân nghĩa, trời bất dung, đất bất thứ là những thứ dùng để diễn tả về những tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút sắc hơn ngọn giáo của Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử sách bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh kì vĩ, vô tận, tội ác chồng chất bị phơi bày trong bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt. ở đây, bản tuyên ngôn độc lập còn có giá trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Lẽ nào trời đất dung thaAi bảo thân nhân chịu được…”
Tội ác mà thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thật là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Qua những phân tích nêu trên, hậu thế có thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang thương đến nhường nào, từ đó ra sức đấu tranh vì một cuộc sống độc lập tự do cố gắng gìn giữ nền hòa bình dân tộc, chủ quyền cương vực lãnh thổ. Đồng thời, phải ra sức phấn đấu rèn luyện nhằm cống hiến và xây dựng quốc gia giàu đẹp, ấy vậy mới xứng đáng với non sông mà ông cha phải đánh đổi cả máu xương mới gìn giữa được.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, có thể thấy rõ sự tàn bạo, thâm hiểm, độc ác của giặc xâm lược, tất cả được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non sông gấm vóc Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 đầy đủ
Bài làm mẫu 1
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ ưu thời ái quốc” – thâm thúy, sắc bén đầy biến hóa trong tài mưu lược chính trị; nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc. Định mệnh có thể khiến con người ta sinh ly tử biệt song, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu luận đề chính nghĩa, phần 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết sau đây sẽ chỉ làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.
Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428 nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng, Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc cứu nước đã thắng lợi. Từ đây, dân tộc sẽ bước vào một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên hòa bình.
Đại Cáo Bình Ngô là tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác phẩm này là một bản tuyên cáo rộng rãi việc đã dẹp yên giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc là giặc Ngô, giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập đến chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ 2 chính là bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Thừa cơ lợi dụng việc nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh kéo quân vào nước ta, hòng chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi vạch rõ:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,Để trong nước lòng dân oán hận.Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Vào năm 1406, giặc Minh lấy cớ việc nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần mà huy động 20 vạn bộ binh và thủy binh, cùng với hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ huy của năm tướng là Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt ta, cánh thứ nhất dưới sự chỉ huy của Trương Phụ đi theo đường Bằng Tường, Quảng Tây mà tiến vào Lạng Sơn; cánh thứ 2 do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại ở đó, quân Minh còn sai người mang sắc đến dụ vua Chămpa nhằm phối hợp để đánh quân ta ở biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, 20 năm nhà Minh đô hộ nước ta là 20 năm chúng thực hiện các chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chúng còn thủ tiêu những di sản văn hóa truyền thống của nước ta, chúng muốn chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Chúng còn đốt sách vở, ngay cả sách học của trẻ em và bia đá chúng cũng phá hủy. Ở đây ta thấy một lần nữa tội ác tày trời của giặc Minh đối với nhân dân Đại Việt bấy giờ.
Tội ác mà giặc Minh gây ra cho Đại Việt ta, tác giả khẳng định đó là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng thể hiện rất rõ, và điểm chung đều rất gian xảo và thâm độc. Chúng không còn chỉ là vơ vét mọi sản vật, sức người nữa mà chúng đã tàn hại môi trường sống, tàn sát con người mà không biết ghê tay.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Đọc hai câu thơ trên ta thấy được hình ảnh cụ thể nhưng cũng khái quát về lời cáo trạng, buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người bé nhỏ, đó là những người ở tận cùng của xã hội, họ là nạn nhân trực tiếp của tội ác mà giặc Minh reo rắc trên bờ cõi đất nước ta. Đến đây ta mới thấy được tấm lòng rộng mở, một tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết nên những câu văn mang đầy giá trị nhân đạo giữa con người với những con người với nhau.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Chọn cái vô cùng là trúc Nam Sơn, nước Đông Hải để nói về tội ác của loài quỷ dữ là thằng há miệng, đứa nhe răng. Chúng và thú dữ chính là một, đều là loài động vật khát máu người, không quan tâm đến con người ta đau khổ như thế nào mà chỉ mãi nhăm nhe cắn xé. Hậu quả mà chúng tạo ra thật tàn khốc, gia đình không tan nát thì cũng là mất chồng, mất vợ, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân khổ cực.
Khi đó nhân dân ta đã dũng mãnh, đứng lên dưới ngọn cờ của Lê Lợi mà tống cổ giặc Minh ra khỏi đất nước.
Để có thể nêu rõ hơn tội ác xâm lược của giặc Minh, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, ông sử dụng những câu thơ giàu hình tượng, linh hoạt trong cách sử dụng giọng văn. Lúc căm phẫn, tức giận với lũ giặc cướp nước; lúc thì đau xót, thương cảm cho nhân dân Đại Việt ta.
Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép :
Lẽ nào trời đất dung tha,Ai bảo thần dân chịu được?
Ý của tác giả ở đây là tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời, hành động tàn ác đầy nhơ bẩn của chúng đến cả thần và người đều không có cách nào tha thứ.
Đây là một bản cáo trạng đanh thép tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm đô hộ nước ta. Để tăng thêm tính thuyết phục cho toàn đoạn tác giả đã đan xen sử dụng hài hòa giữa hai hình ảnh mang tính chất khái quát và hình ảnh có tính cụ thể, sinh động.
Bằng cái tài và cái tâm của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo xứng đáng là áng văn thiên cổ hùng văn của dân tộc thời đó, thậm chí là bây giờ.
…………..
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại cáo