1. Hướng dẫn phân tích khổ 1 Tây Tiến
1.1 Phân tích đề bài
– Yêu cầu của đề bài: Phân tích nghệ thuật và nội dung của 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến (khổ 1) thông qua đó có cái nhìn chi tiết về những hình ảnh về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc cùng hình tượng người lính với biết bao nhiêu kỷ niệm về tình quân dân mặn nồng.
– Phạm vi tư liệu dẫn chứng: những từ ngữ, chi tiết và hình ảnh xuất hiện trong khổ thơ 1 (14 câu thơ đầu tiên) của bài thơ Tây Tiến
– Phương pháp lập luận được sử dụng chủ yếu là phân tích.
1.2 Triển khai luận điểm phân tích đoạn 1 Tây Tiến
– Luận điểm thứ nhất: Ký ức về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc cùng đoàn quân Tây Tiến
– Luận điểm thứ 2: Hình ảnh về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, con đường hành quân chất chứa gian khổ của những người lính, sự hy sinh vô cùng cao cả của người lính và niềm xót thương của tác giả dành cho đồng đội của mình.
– Luận điểm thứ 3: Nỗi nhớ thương các đồng đội, nhớ Tây Bắc da diết cùng những kỷ niệm về tình quân dân trong những ngày còn chiến đấu
>> Mời bạn xem thêm: Soạn văn 12 đầy đủ các bài học trên lớp
2. Lập dàn ý phân tích khổ 1 Tây Tiến
a) Mở bài phân tích Tây Tiến đoạn 1
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng cùng bài thơ Tây Tiến
– Dẫn dắt vào chủ đề của đoạn 1 trong bài thơ: Đoạn đầu của bài thơ Tây Tiến thể hiện rõ một thời kháng chiến vô cùng gian nan và hào hùng của đoàn quân.
b) Thân bài phân tích Tây Tiến khổ 1
-
Ký ức về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc cùng với đoàn quân Tây Tiến
– “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều đã trở thành những người thân yêu ruột thịt mà tác giả Quang Dũng dành tất cả tình cảm nhớ thương.
– “Nhớ chơi vơi” là một nỗi nhớ lạ lùng của những người lính xuất phát từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn của họ biết bao nhiêu kỷ niệm không thể quên, đồng thời cũng thể hiện nỗi trống trải và lạc lõng ở trong lòng tác giả.
-
Hình ảnh về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân vô cùng gian khổ của những người lính
– “Sài Khao”, “Mường Lát” là tên của những địa danh gợi nhắc đến địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, mở rộng sang những không gian khác trong bài thơ
– Nỗi nhớ ở đây dường như đã được dàn trải ra khắp vùng không gian bao la rộng lớn, mỗi một nơi bước chân của tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương vô cùng đặc biệt, trở thành những kỷ niệm luôn khắc sâu trong tâm hồn.
– Những kỷ niệm nhỏ đáng nhớ như sự “mỏi” sau những chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng sáng trong đêm tối đều để chứng minh cho nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
– Gợi tả sự hiểm trở của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, sự khó khăn vất vả và những nỗ lực kiên cường của những người lính trong quá trình hành quân.
– “Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa rất thú vị, thể hiện rõ tâm hồn hết sức lãng mạn, hồn nhiên lại hài hước của những người lính đối diện với hoàn cảnh gian khổ.
– “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thể hiện vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang sơ, gợi lên sự bình yên, chốn dừng chân của những người lính.
-
Hình ảnh của người lính cùng những kỷ niệm về tình quân dân
– Hai câu thơ “Anh bạn… quên đời”:
+ Sự hy sinh vô cùng cao cả của người lính chiến, một tư thế hiên ngang, dũng cảm sẵn sàng xả thân để bảo vệ cho Tổ quốc.
+ Niềm xót thương cùng với sự khâm phục tinh thần hy sinh của tác giả Quang Dũng dành cho các đồng đội của mình.
– Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi”
+ Vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc cùng với kết cấu thơ tân kỳ, sử dụng các động từ mạnh, thể hiện được sự nguy hiểm luôn rình rập các chiến sĩ nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
+ Sự bừng tỉnh khỏi những kỷ niệm của tác giả, quay trở lại hiện thực với biết bao nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ về tình quân dân nồng nàn với hình ảnh nắm xôi, hương lửa trong những ngày tháng còn chiến đấu.
c) Kết bài phân tích đoạn 1 Tây Tiến
-
Giá trị nội dung
– Đoạn thơ 14 câu tái hiện rõ nét núi rừng hùng vĩ cùng con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên có những người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp thật oai hùng, bi tráng.
-
Giá trị nghệ thuật
– Nghệ thuật tương phản và cường điệu được sử dụng rất nhiều, cách dùng các từ láy giúp gợi hình, gợi cảm đã khắc họa lên một bức tranh đầy đủ màu sắc và đường nét.
– Bút pháp hiện thực kết hợp với những cảm hứng lãng mạn; chất họa hoà vào với chất nhạc => tái hiện con đường hành quân giữa thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ lại thơ mộng.
+ Nghệ thuật hài thanh: Tác giả đã sử dụng những câu thơ chứa nhiều thanh trắc để góp phần tạo nên sự trắc trở.
+ Thơ mộng, trữ tình: với những từ ngữ độc đáo và ấn tượng: “hoa về” chứ không phải là “hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải là “đêm sương”.
d) Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 Tây Tiến
3. Bài phân tích khổ 1 Tây Tiến chi tiết
3.1 Phân tích đoạn 1 Tây Tiến ngắn gọn
Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ Tây Tiến là tác phẩm được ông sáng tác khi Quang Dũng đã rời xa đơn vị Tây Tiến của chính mình được một khoảng thời gian. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ da diết và chơi vơi của ông khi nhớ đến những kỉ niệm hành quân gian khổ cùng đồng đội của mình qua vùng núi rừng Tây Bắc đầy hiểm trở. Đặc biệt, qua khổ thơ đầu tiên, tác giả đã cho người đọc cảm nhận thấy vẻ đẹp của núi rừng thiên nhiên Tây Bắc cũng như con đường hành quân vô cùng gian khổ của những người lính Tây Tiến.
Ngay ở đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng trai tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bằng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn về những kỷ niệm vẫn còn đọng lại qua câu chuyện đời của biết bao tâm hồn yêu nước thầm lặng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
…
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế nhưng hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc đến “sông Mã” trước tiên. Phải chăng dòng sông Mã ấy uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc chính là hình ảnh đã đi sâu vào tâm hồn người chiến sĩ?
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Đây chắc hẳn là một nơi đã gắn bó với các anh bởi những kỉ niệm đẹp nhất thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp sáng lên ngọn lửa của những khát vọng tự do dân tộc đầy hào hùng. Tiếng gọi của mái trường xin tạm thời khép lại, dấu chân người đã in dày trên những đỉnh núi cao, băng qua bao nhiêu cánh rừng xanh. Đoạn hành trình vừa dài lại chứa đựng nhiều gian truân, khó khăn cùng với muôn vàn thử thách. Ở chốn xa xôi, chỉ có tình đồng chí là luôn sống mãi, dìu dắt nhau vượt qua được hàng ngàn phong ba, bão tố.
Chính những hình ảnh tưởng chừng như bình dị ấy đã khiến các anh cảm thấy “chơi vơi” khi quay đầu nhìn lại. Thông qua cách sử dụng từ láy “chơi vơi” đặc biệt của tác giả, một nỗi nhớ da diết và triền miên được bộc lộ theo một cách nhẹ nhàng nhưng không thể nào phai. Tâm tư kia như được khắc sâu vào tim, được vẽ lên phiến đá, tồn tại theo thời gian qua rất nhiều dáng vẻ, hình thù khác nhau. Đồng thời, khi kết hợp với từ cảm thán “ơi” ở câu phía trên lại càng nhấn mạnh được một cảm xúc khó tả, một chút xao xuyến trong lòng của toàn đoàn quân Tây Tiến, trong đó có cả tác giả Quang Dũng.
Nếu như hai câu đầu tiên của đoạn thơ là khúc dạo đầu của những hồi ức kỷ niệm thì hai câu thơ tiếp theo có lẽ lại là sự bộc tả về đoạn hành trình đã được in dấu:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Giữa những màn sương mù dày đặc, giữa cái đêm gió rừng gào thét, đoàn quân vẫn cứ miệt mài đi qua dù cho có mỏi mệt, vất vả đến đâu. Chút lãng mạn cùng nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm lạnh thấu xương vẫn nhận ra được hương hoa rừng còn lan tỏa. Bên cạnh mùi thuốc súng đạn tàn khốc, bên tiếng pháo và tiếng bom ngày đêm vang dội, món quà nhỏ bé từ núi rừng thiên nhiên ấy đã được các anh đón lấy một cách thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” có phảng phất mùi hương.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nối tiếp những cung bậc cảm xúc ở bên trên, việc sử dụng các từ láy có tác dụng làm gợi hình như: khúc khuỷu, heo hút, thăm thẳm của tác giả đã khắc họa lên một bức tranh hành trình đầy hiểm trở thêm phần rõ nét. Con dốc cao sừng sững ngất trời chứa đầy khó khăn, cách trở với đường đi thì quanh co, gập ghềnh khiến cho từng người lính khi cất bước đi qua gặp không biết bao nhiêu nguy hiểm.
Ấy vậy mà, dù có phải băng qua gió, đi trên mây, nét hóm hỉnh của những người lính trẻ trong đoàn quân vẫn còn nguyên vẹn. Phải chăng phép nhân hóa “súng ngửi trời” được tác giả sử dụng là một minh chứng rõ nét nhất trong bài thơ? Trước cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, mây mù bao phủ quanh năm, giữa bộn bề nguy hiểm, sinh tử cận kề, tinh thần lạc quan của các chiến sĩ vẫn luôn được gìn giữ.
Cách miêu tả “súng ngửi trời” nghe thật ngộ nghĩnh và hồn nhiên, nhưng càng gọi như vậy lại càng cảm thấy thương vô cùng. Thương cho những cái gian truân, vất vả, thương cho biết bao gian khổ, khó khăn ở chốn rừng thiêng nước độc mà những chàng trai trẻ xa nhà phải chịu đựng.
Là “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh vật thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc, người ở phía dưới nhìn lên tưởng như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống lại mịt mờ mây và sương mù bao kín. Những ngọn núi, ngọn đồi cao, quanh năm không một dấu chân người đi qua, “heo hút”, trùng trùng điệp điệp thì nay đã có các anh đi qua, mang theo cả mùi sương vị gió.
Tạm dừng những câu thơ có sự kết hợp của nhiều thanh trắc để miêu tả cảnh dốc đồi, tác giả đã viết nên một câu thơ cùng với vần bằng xuyên suốt cho đến câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một thoáng mênh mang đã được tái hiện lên giữa công cuộc hành quân, khi các anh dừng chân ở nơi ngọn đèo xa lạ, được nhìn thấy bản Pha Luông mọc lên với những ngôi nhà. Tiếng “nhà” gọi lên nghe thật bâng khuâng, làm xao xuyến không biết bao nhiêu tâm hồn, một tiếng khẽ thôi nhưng lại chan chứa nhiều nỗi man mác khó có thể tả bằng lời. Là có lẽ đứng giữa nơi chốn lạ trông thấy cảnh vật tuy xa xăm mà lại gần gũi? Hay là vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương vẫn luôn được gìn giữ trong tim mỗi chàng trai Hà Thành cả một thời thơ dại chưa từng phải rời xa mảnh đất cố hương?
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Nơi núi rừng Tây Bắc hoang sơ, là những ngọn núi cao ngất trời, những cánh rừng sâu có đầy dã thú, con dốc cao sừng sững cản bước chân của các anh. Hành quân ở nơi địa hình đầy hiểm trở như thế thì ranh giới giữa sự sống với cái chết thật sự mong manh và khó đoán. Đã có những chiến sĩ phải kiệt sức vì chặng đường quá khắc nghiệt, gian khổ, bỏ lại sau lưng chí hướng cùng những đồng đội trên đường. Thương cho những con người “dãi dầu không bước nữa”, để rồi lại “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bởi cái cảnh mưa gió, thú dữ, tiếng cọp hoang luôn văng vẳng trong đêm nơi xứ Mường Hịch, tiếng thác chảy thét gầm vào những buổi chiều hoàng hôn phủ lặng…
Sau những chặng đường dài và nguy khó, hai câu thơ cuối cùng kết thúc khổ thơ một đã khiến cho người đọc cảm nhận lại được một chút ấm áp, dịu nhẹ cạnh những kỷ niệm chan chứa tình người nơi mà những người lính trẻ đi qua:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gác lại những phút trắc trở khi băng qua rừng, lội suối, các anh cũng dừng lại và ngồi quây quần lại với nhau nơi bản làng xa lạ đó. Mùi khói bếp xông lên xen giữa tình đồng đội, đồng chí vô cùng thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em ruột thịt một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu vẫn giữ những dấu ân tình, là buổi trò chuyện vào những bữa cơm ngọt thơm vị khói đã làm in đậm lên những kỷ niệm khó có thể phai mờ.
Chiến tranh đã trôi qua từ rất lâu, mỗi khi nhìn lại thì đó là những khoảng lặng, những nốt trầm trong chúng ta, để chúng ta thêm phần biết ơn, thêm phần tự hào về những người lính thông qua khổ thơ một của bài thơ Tây Tiến nói riêng cũng như các chiến sĩ đã sẵn sàng hy sinh để bảo vệ dân tộc nói chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người sẵn sàng ngã xuống vì tình yêu quê hương, đất nước thì đó chính là những quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí hoàn hảo về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy hào hùng của cuộc đời mình.
Bí kíp đỗ đại học sớm với kỳ thi ĐGNL cùng combo sổ tay hot nhất hiện nay
3.2 Phân tích Tây Tiến khổ 1 hay nhất
Bài thơ “Tây Tiến” của tác giả Quang Dũng có thể được coi là một bông hoa tươi thắm nhất trong chùm thơ viết về chủ đề người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã thể hiện được sức sống vô cùng mạnh mẽ, bền bỉ trong lòng độc giả ngay từ lúc nó ra đời. Sức sống ấy là nhờ vào ngòi bút tài ba của Quang Dũng được khơi dậy từ cảm hứng xen lẫn giữa hiện thực với lãng mạn khi khắc họa lên hình tượng của người lính vệ quốc như một khúc hát bi tráng vang lên giữa một bản anh hùng ca hùng tráng của toàn dân tộc trong những năm chiến đấu giữ nước. Hình ảnh của những người lính với sự đan xen giữa màu sắc hiện thực và lãng mạn được xuất hiện ngay từ phần mở đầu của bài thơ, gợi lên vẻ đẹp của những người lính đã gắn liền với những quãng đường hành quân của họ. Thiên nhiên và con người như được hòa quyện lại với nhau tạo nên sự hùng vĩ của bức tranh vẽ về cuộc sống, sự vĩ đại của con người.
“Tây Tiến”, nói đúng hơn là nỗi nhớ vô cùng da diết và tự hào của tác giả Quang Dũng về những người đồng đội của mình trong đoàn quân Tây Tiến, đoàn quân với sứ mệnh từ Hà Nội, Hà Tây thẳng tiến lên Tây Bắc giải phóng được vùng biên giới lãnh thổ Việt – Lào, sau đó sẽ giúp nước bạn giải phóng được thượng Lào, tạo được thế an toàn cho chiến khu của chúng ta; kể về những năm tháng đầy rẫy những gian khổ nhưng cũng vô cùng hào hùng của đoàn quân Tây Tiến gắn bó với những mảnh đất mà họ đã đi qua, chiến đấu và đem lại chiến thắng. Sau công cuộc hành quân dài Tây Tiến, bộ đội được chuyển sang các đơn vị khác. Vì vậy, bài thơ lúc đầu có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau này mới được đổi thành “Tây Tiến”.
Bài thơ được viết như một lưu ý cuối cùng, được viết tại Phù Lưu Chanh, một ngôi làng cạnh bên bờ sông Đáy. Phải chăng vì vậy mà nỗi nhớ Tây Tiến cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dòng sông mang âm hưởng vô cùng tha thiết?
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Đó chính là âm vang từ hai từ “đi” và từ “ơi” đầy hoài niệm. Nhà thơ đã để cho tiếng gọi thân thương “Tây Tiến Ơi” vang vọng qua một khoảng thời gian khổ cực nhưng chứa đầy nghĩa tình, đầy sự hi sinh nhưng cũng đầy kỷ niệm, vang vọng đến toàn bộ miền đất xa, vang vọng đến cả những người đồng đội cho dù ở bất cứ vùng đất xa lạ hay chiến đấu ở bất cứ chiến trường nào. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! thấm đẫm bao nhiêu kỉ niệm của nhà thơ Quang Dũng.
Hình ảnh về sông Mã mở đầu cho nỗi nhớ thương Tây Tiến như một lời khẳng định về những dư âm bi tráng, hào hùng của “Tháng năm Tây Tiến” không thể xóa nhòa được trong tâm trí không chỉ của những chiến sĩ Tây Tiến mà còn của những người lính anh dũng khác. Sông Mã đã trở thành một biểu tượng cho sức mạnh cũng như vẻ đẹp của đoàn quân Tây Tiến. Và Quang Dũng đã làm cho dòng sông Mã ấy nhạt nhòa bớt đi, nhưng vẫn chảy xuyên suốt bài thơ, để có những lúc nó hiện ra như một thác nước chảy ầm ầm hùng vĩ trong một buổi chiều muộn, khi lại tràn về với những con thuyền và cuối cùng hình ảnh hiện lên trọn vẹn trong khúc bi tráng của nó chính là khi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Và phải chăng sông Mã cũng là một dòng sông có cảm xúc mà Quang Dũng muốn gửi gắm vào đó biết bao niềm tự hào, khâm phục và nỗi nhớ nhung đồng đội. Mười bốn câu mở đầu của bài thơ là nỗi niềm về những người lính Tây Tiến gắn bó với chặng đường hành quân đầy gian nan của họ. Thiên nhiên được miêu tả cũng gắn liền với công cuộc hành quân này. Thiên nhiên và con người như được hòa quyện vào nhau. Công cuộc hành quân của những người chiến sĩ Tây Tiến thể hiện ở mười bốn câu thơ như thuật lại những thước phim tư liệu nhưng chứa đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống và trong sự nghiệp chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến.
Trước tiên, Quang Dũng đã phác họa ở Tây Tiến một cảnh tượng thiên nhiên núi rừng vừa hùng vĩ lại huyền bí, vừa thơ mộng lại khắc nghiệt để làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính. Bởi vậy, phía sau câu thơ như một tiếng gọi đầy tha thiết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”, hình ảnh cả một vùng núi rừng thiên nhiên bao la đang nghiêng mình trong ống kính máy ảnh, đang chơi vơi trong nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng. Không gian hiện hữu của những sự vật, đi vào trong nỗi nhớ của Quang Dũng “chơi vơi” trở thành một không gian của những suy tư, cảm xúc. Từ “chơi vơi” này như thể hiện một hoài niệm, như ống kính máy ảnh ghi lại những chặng đường đã trải qua của những chiến sĩ Tây Tiến với những địa danh, như sự lựa chọn kỳ diệu, gợi ra nhiều cảm giác về địa hình hiểm trở, xa xôi như Sài Khao, Pha Luông, Mường Lát, Mường Hịch, Mai Châu. Những địa danh ấy với độc giả lúc bấy giờ còn rất huyền bí và hoang sơ, thậm chí còn cổ kính, khiến Vũ Quần Phương liên tưởng đến hai chữ “Mường Hịch” nghe như tiếng bước chân của cọp, trong khi hai chữ “Mai Châu” đã được ủ sẵn trong hương nếp rừng, mới biết rằng sức gợi của những địa danh cũng có sức lay động trí tưởng tượng cho người đọc.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong Tây Tiến của Quang Dũng vô cùng đặc sắc bởi nó được tạo ra từ những ngôn ngữ tượng hình. Miêu tả cảnh vật thiên nhiên, ta thấy được những bước chân thực sự dũng cảm của đoàn quân Tây Tiến đang phải đạp qua mọi khó khăn mà thiên nhiên đang thử thách, mọi hiểm nguy thiên nhiên đang đe dọa. Ta không chỉ thấy được một Sài Khao mờ sương hay một Mường Lát hoa trong đêm mà còn thấy cả những cung đường vô cùng quanh co, cheo leo.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Tuy nhiên, phải công nhận rằng thơ Quang Dũng có những đặc điểm vô cùng nổi bật và bao trùm, đó là những hình ảnh mang ý nghĩa tương phản có tác dụng giúp nâng đỡ nhau trong việc thể hiện cảm xúc. Thế là những cái “sườn”, “khúc”, “sâu”, “hút” cũng trở nên vô nghĩa trước những thử thách của thiên nhiên dành cho con người. Vì sau khi vượt qua những thử thách ấy, tác giả chợt cảm nhận thấy lòng kiêu hãnh của một người lính. Quang Dũng đã xây dựng một hình ảnh hết sức bất ngờ từ những sự tương phản, hình ảnh “súng ngửi trời”. Từ hình ảnh đó, người lính hiện lên một cách chân thực với những người lính có xuất thân từ những người sinh viên, trí thức ở Hà Nội. Đó cũng là hình ảnh hiện ra trong mắt của những người lính trẻ tuổi nhưng thông minh lại tinh nghịch, những người lính đó đã vượt qua không biết bao nhiêu dốc cao để có thể vươn tới bầu trời, cho ngòi súng được ngửi trời. Không có thân phận là những người lính như trong đoàn quân Tây Tiến thì khó có thể liên tưởng đến các từ “mũi súng” với “súng ngửi trời”.
Nhưng trong những câu thơ của nhà thơ Quang Dũng, người lính hiện lên với hồn nhiên và lãng mạn, vừa có phần thực lại vừa giàu ý nghĩa tượng trưng. Thiên nhiên đôi lúc hiện lên qua những câu thơ giàu giá trị tượng hình. Đó chính là câu thơ:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhiều người rất yêu thích câu thơ này do sự ngắt nhịp giữa dòng giúp làm ngắt câu thơ, tạo nên một đỉnh cao nghìn thước. Nhưng thực tế, độ cao ngàn thước đó được hình thành từ chính các cấu trúc ngữ nghĩa của câu thơ. Nhà thơ đã tạo nên được sự tương phản giữa nghìn thước lên với nghìn thước xuống để khi đứng giữa câu thơ là cả một bầu trời của từ “cao”. Chính cấu trúc ngữ nghĩa đã hình thành nên đỉnh cao nghìn thước ở giữa câu thơ. Không chỉ thế, câu thơ có nhiều từ “lên”, “xuống” còn gợi ra hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến vượt qua những vách núi dựng đứng. Miêu tả khung cảnh thiên nhiên, Quang Dũng không chỉ nhấn mạnh về sự điên cuồng của nó mà còn gợi tả một hình ảnh rất nên thơ. Bên cạnh sự nguy hiểm của những đỉnh núi cao đến hàng nghìn mét, tiếng thác chảy ầm ầm, mãnh hổ Mường Hịch như trêu ngươi.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Lời thơ mang nhiều âm điệu, gợi nên sự mênh mông, xa vắng và chơi vơi. Bản thân của sự tương phản giữa các tông màu gợi lên những cánh cửa trong núi, nhưng nổi bật hơn là sự lãng mạn đã được hình thành từ một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ như vậy. Phải là một người lính chứa đầy chất thơ trong tâm hồn thì mới có thể cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp ấy sau khi đã vượt dốc, chinh phục đỉnh cao nghìn mét.
Qua mười bốn dòng mở đầu của bài thơ, tuy hình ảnh của người lính chỉ thấp thoáng trong rừng núi thiên nhiên thông qua lăng kính cận cảnh của nhà thơ Quang Dũng nhưng bài thơ vẫn khắc họa được đầy đủ những nét đẹp vô cùng độc đáo từ ý chí, nghị lực đến hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến. Hình tượng người lính ở đó cũng mang rất nhiều màu sắc đan xen từ hiện thực đến lãng mạn, một sự hòa quyện rất đặc trưng trong thơ văn của Quang Dũng. Hiện thực và lãng mạn sẽ luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau trong từng câu thơ và từng hình ảnh.
Đó là hình ảnh những người lính hiện ra như một đoàn quân mệt mỏi kiệt sức, nhưng cũng là những người lính với tâm hồn thơ mộng nên dù có bao nhiêu mỏi mệt vẫn cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, vẻ đẹp của một “Hoa Mường Lát”. Trong hơi thở của đêm, người lính như được thả hồn mình vào trong cõi mộng của đêm giữa thiên nhiên núi rừng, tận hưởng được mùi hương hoa rừng. Đoàn quân Tây Tiến tiếp tục hành quân qua Mường Lát với ngọn đuốc trên tay. Qua đó, nhà thơ muốn in đậm cái tinh tế, cái chất thi – thơ như một nét đẹp vốn có trong tâm hồn người lính.
Mặc dù mười bốn câu mở đầu của bài thơ chủ yếu khắc họa lên bức tranh của thiên nhiên rất hoang sơ, đầy hiểm trở nhưng nhà thơ Quang Dũng muốn từ cảnh vật thiên nhiên ấy làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính Tây Tiến với tầm vóc to lớn. Với ý chí kiên cường cùng tâm hồn phơi phới niềm tin và sự lạc quan đã tạo ra sức mạnh có thể vượt qua mọi khó khăn, dám hy sinh để tiến về phía trước. Đây là một bài thơ vô cùng độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm nổi bật hình ảnh người lính. Hình tượng nghệ thuật vừa thể hiện nét gần gũi với hiện thực, lại vừa thể hiện sự bay bổng trong tâm trí của người đọc cũng chính bởi chất lãng mạn đó trong hồn thơ của tác giả Quang Dũng.
Thời điểm vàng để bắt đầu lộ trình ôn thi tốt nghiệp THPT cùng khóa học PAS THPT
3.3 Phân tích Tây Tiến đoạn 1 cho học sinh giỏi
Chẳng biết từ bao giờ mà Tây Bắc đã trở thành một miền đất thương nhớ trong lòng không biết bao nhiêu nhà thơ. Và viết về chủ đề người lính cũng là một trong những đề tài được nhiều tác giả lựa chọn trong đó cũng có tác giả Quang Dũng. Bên cạnh những tác phẩm tiêu biểu như Đồng chí của tác giả Chính Hữu, Nhớ của tác giả Hồng Nguyên thì bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng lại là chứa những cung bậc cảm xúc mênh mang về nơi núi rừng xưa cũ cùng với những người đồng đội Tây Tiến anh dũng.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Tây Tiến là tên của một đoàn binh được thành lập vào năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp cùng đơn vị bộ đội Lào nhằm bảo vệ biên giới Việt-Lào, đánh tan lực lượng quân đội Pháp, đơn vị bộ đội đó có xuất thân chủ yếu từ những người thanh niên Hà Nội, phần lớn là những người học sinh, sinh viên, người có trí thức, tiểu tư sản ở Hà thành.
Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh- Hà Đông trong một buổi chiều mưa vào cuối năm 1948. Bài thơ chính là tiếng lòng của tác giả Quang Dũng với nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến sau khi đã chuyển công tác về một đơn vị khác. Để đi tới sáng tác tác phẩm “Tây Tiến”, một trong những thi phẩm đặc sắc nhất của ông, đem lại thành công độc đáo trong hồn thơ của chính mình, những kỷ niệm về Tây Tiến được ví như lớp phù sa màu mỡ, lắng đọng và bồi tụ trong tâm hồn thơ ca của Quang Dũng, chính từ lớp phù sa đó, những kỉ niệm và kí ức một thời của tác giả về đoàn quân Tây Tiến mới cất cánh bay xa, xây dựng hồn thơ đặc sắc thể hiện trong tác phẩm của ông.
Viên Mai đã từng viết rằng: “Làm người thì không có cái tôi…nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Nhận định đó thật đúng đắn khi ta đối chiếu vào “cái tôi” làm thơ đầy hồn hậu, lãng mạn và phóng khoáng của tác giả Quang Dũng. Có lẽ bởi vì thế mà ông có thể sáng tác ra rất nhiều vần thơ lãng mạn, tài hoa, đặc biệt là khi viết về hình ảnh của người lính trong bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm chính là nỗi nhớ về những kỉ niệm với đơn vị cũ của mình, tiêu biểu với đời thơ của Quang Dũng, thể hiện sự sâu sắc trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Mười bốn câu đầu tiên cũng chính là khổ thứ nhất của bài thơ đã tái hiện lại những gian khó, vất vả trên con đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên chặng đường đó, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên với một vẻ rất hùng vĩ dữ dội đan xen với vẻ đẹp thơ mộng, đầy trữ tình.
Mới đầu, bài thơ thể hiện những khó khăn, gian khổ trên quãng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên quãng đường ấy, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên rõ nét hùng vĩ dữ dội xen với một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu về cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn, toàn bài, đó chính là nỗi nhung nhớ tha thiết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Câu thơ mở đầu được thể hiện bằng ngữ điệu của một câu cảm thán, khơi gợi lên rất nhiều cảm xúc của nhà thơ khi cất lên tiếng gọi đoàn binh của mình. Nhà thơ đã cất tiếng gọi “Sông Mã”, đó là hiện thân cho thiên nhiên Tây Bắc, địa danh đã từng đồng hành, gắn bó với đoàn quân suốt chặng đường hành quân vất vả nhưng khi gọi đến lại là những gì thân thuộc nhất. Nếu như Huế có dòng sông Hương êm ả, Hà Nội lại có cầu Long Biên cùng đồng hành trong những quãng đường lịch sử thì con sông Mã được ví như một vật thể sống, một chứng nhân lịch sử ghi lại những chiến công và những chặng đường hành quân đầy gian nan của người lính Tây Tiến. Hai tiếng “xa rồi” như một tiếng nấc nghẹn, bật lên trong nỗi niềm ngậm ngùi và xót xa, khi mà giờ đây, những kỉ niệm ấy với dòng sông Mã năm xưa đã ghi danh vào lịch sử, tác giả chỉ có thể trở về đó trong tâm tưởng của bản thân. Tiếng nghẹn ấy đã làm cho âm điệu của câu thơ trở nên êm ái, gợi niềm tiếc nuối lưu luyến, bâng khuâng. Bởi lẽ “ Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” (Puskin), xuất phát từ những nỗi nhớ sâu thẳm và da diết trong trái tim mình, Quang Dũng đã viết thành những vần thơ chân thật, khởi nguồn từ kỷ niệm trải qua ở chiến khu cũ của mình. Hai từ “Tây Tiến” bật lên nghe mới thật gần gũi, thân thương làm sao! Tây Tiến là sản phẩm của nỗi nhớ thương ấy nhưng không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nguồn gốc để khơi gợi tình cảm, cảm xúc vô cùng chân thật, khát vọng, cho dù đã rất xa nhưng tâm hồn vẫn mãi thủy chung với đoàn quân Tây Tiến. Điệp từ “nhớ” xuất hiện rất nhiều với tác dụng làm nổi bật lên được nỗi nhớ nhung tha thiết của nhân vật trữ tình và cũng tạo chất nhạc cho câu thơ tựa như một điệp khúc mãi vang vọng sâu thẳm trong tâm hồn của người đọc làm cho ta không thể không đồng tình với lời nhận xét của Voltaire:
“ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.
Cách sử dụng ngôn từ của Quang Dũng để diễn tả nỗi nhớ rất đặc biệt “nhớ chơi vơi”. Có nhiều hình thức nhớ được thể hiện trong kho tàng văn học Việt Nam thế nhưng “nhớ chơi vơi” lại khác biệt và chính cụm từ đó làm cho nguồn cảm xúc trong bài thơ được tỏa sáng theo một cách riêng của nó. “Chơi vơi” là một từ láy tượng hình, thể hiện trạng thái lơ lửng của con người ở trong không gian, không có điểm đầu cũng không có điểm kết thúc. Như vậy nhớ chơi vơi tức là nỗi nhớ luôn thường trực, triền miên và khắc khoải, khiến cho con người ta đứng ngồi không yên. Trạng thái lơ lửng và bồng bềnh của “chơi vơi” cộng hưởng với cảm xúc nồng nàn và say đắm chính là miền nhớ đã hình thành một nỗi “nhớ chơi vơi” có một không hai trên nền thơ ca. Có lẽ vì nó luôn gắn liền với “rừng núi” bao la, trời đất bát ngát và quá khứ bi hùng nên nó cũng cần phải “chơi vơi” như thế, giống như những đám mây lơ lửng trên không trung kia, như là làn sương mây khói giữa Pha Luông khi những người chiến sĩ đã dừng chân bên lưng sườn núi: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”… Hai câu thơ đó đã thể hiện đầy đủ những cảm xúc xuyên suốt bài thơ, tạo nền tảng giúp cho những nỗi nhớ được nâng lên thành một loại tình cảm luyến lưu sâu sắc.Từ nỗi nhớ ấy, Quang Dũng đã gợi ta nỗi nhớ đến những nhân vật trữ tình trong câu ca dao:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Tác giả như đang được trôi theo dòng nhớ để những sợi tơ lòng cũng giăng mắc khắp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Hai âm “ơi” được kéo dài tạo nên chất nhạc cho cả câu thơ, tưởng chừng Quang Dũng đã gợi lên một hồi chuông thương nhớ vượt qua tận miền Tây Bắc xa xôi rồi lại vọng về, đi thẳng vào đáy của hồn người, ngân nga và ngân nga mãi! Người ta có thể quên đi một hình bóng, một cảnh vật và một kỉ niệm với Tây Tiến, nhưng có lẽ sẽ chẳng ai có thể quên đi một nỗi nhớ chơi vơi khác lạ và say đắm đến như thế.
Có những mùi hương mà trăm năm không thể nào quên, có những nỗi nhớ sâu thẳm đến vô cùng. Nỗi nhớ về thiên nhiên rừng núi Tây Bắc, về đoàn quân, về một thời tuổi trẻ với biết bao nhiêu gian khổ, khó khăn, nhưng cũng thật sự hào hùng, hào hoa ở trong tâm hồn Quang Dũng như một thứ trầm hương, mang đến cho mình hương thơm “thọ thiên địa chí khí”, hương thơm ấy thật thanh mát, dịu nhẹ trở lại trong tâm tưởng của nhà thơ với tất cả những gì tinh tuý nhất của nó. Có lẽ cũng bắt đầu từ nỗi nhớ như tác giả Quang Dũng mà nhà thơ Giang Nam cũng đã từng vẽ lên những âm điệu đầy thi vị cùng với niềm tự hào khôn xiết:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
Đối với hai câu thơ tiếp theo, tác giả mở ra một khung cảnh con đường hành quân của những người chiến sĩ trẻ Tây Tiến:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật liệt kê những địa danh mà ông đã từng đi qua như Sài Khao, Mường Lát. Văn học chính là môn nghệ thuật đặc thù bởi vì nó sử dụng những ngôn từ ngắn gọn nhất, súc tích nhưng lại chứa vô vàn tầng lớp ngôn từ đa nghĩa, buộc chúng ta phải có cái nhìn toàn diện hơn, đa chiều hơn mới có thể khám phá được dụng ý của tác giả. Hình ảnh tả thực “sương lấp” cho ta thấy được lớp sương ở đây bao phủ vô cùng dày đặc tưởng chừng như có thể nuốt chửng được cả một đoàn quân, khiến cho bước chân của những người chiến sĩ Tây Tiến mệt mỏi rã rời. Thời tiết ở đây cũng rất khắc nghiệt, khiến cho quãng đường hành quân của người lính gặp không biết bao nhiêu khó khăn, vất vả, khổ cực. Mặt khác, “sương” ở đây còn là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn, gian khổ và thử thách cũng như những cạm bẫy mà những người lính trẻ phải đối mặt, phải vượt qua, chấp nhận được nó như một phần trong cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh ấy cũng từng được nhà thơ Tố Hữu viết trong bài thơ Việt Bắc:
“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Những gian khổ, vất vả ấy được thi nhân gói gọn trong một từ vô cùng lãng mạn “sương” càng tô đậm thêm nét hào hoa vô tư, hết đỗi lạc quan của người lính Tây Tiến cho dù có những lúc “đoàn quân mỏi”. Câu thơ này vừa thể hiện sự hào hùng lại thể hiện nét trữ tình làm cho Đinh Minh Hằng phải phát biểu rằng: “Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”.
Đối lập với câu thơ phía trên, câu thơ thứ hai lại là một nét vẽ vô cùng lãng mạn, mềm mại và thơ mộng. Nét vẽ ấy cho chúng ta thấy được vẻ đẹp hết sức thơ mộng trữ tình của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc: “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “hoa về” làm cho thiên nhiên tạo vật trở nên sống động và có hồn hơn. Liệu rằng, “hoa” ấy, có phải là ngàn hoa của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc xuất hiện ở bản nhạc “Tình ca Tây Bắc” đầy yêu thương? Hay “hoa” đó không phải là hoa với cách nói thông thường, mà lại là những ngọn đuốc bập bùng được người lính thắp lên để soi đường trong những đêm sương lạnh giá? Dù hiểu theo bất cứ nghĩa nào thì “hoa” kia vẫn cứ nhẹ nhàng và êm ái tựa như một hơi thở vậy. Câu thơ đã hé lộ tâm hồn lãng mạn và bay bổng sẵn có của một người lính Tây Tiến. “Hoa về trong đêm hơi” khiến cho màn đêm nơi mà núi rừng bạt ngàn mênh mông, chơi vơi tựa như đang ở trong cõi mộng chứ không còn là thực thực nhân sinh nữa. “Đêm hơi” chính là đêm dài trong nước, trong mưa gió bụi. Ở miền núi vào sẩm tối, sương bắt đầu xuống bàng bạc, trong khoảnh khắc ấy, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thay vì viết là “màn đêm buông” là ‘hơi đêm”, đây là một cách thể hiện vô cùng táo bạo. Nhưng sử dụng “hơi đêm”, tức là “mới vào đêm”, không thể bộc lộ hết vẻ yên tĩnh và bí ẩn bằng “đêm hơi”. Mặt khác, từ “hoa” còn có thể hiểu với nghĩa ẩn dụ như những mỹ nữ miền sơn cước nơi đây, kết hợp với sự mờ nhòe của từ “hơi” làm cho câu thơ thêm phần lãng mạn nhưng cũng không che được phần bi tráng. Quang Dũng đã làm cho hình ảnh trong thơ trở thành một ẩn số nhưng ẩn số ấy lại đọng lại một cách sâu lắng trong tâm tư của người đọc. Việc sử dụng từ ngữ độc đáo “đêm hơi” cũng cho thấy được sự tinh tế trong cách cảm nhận và sự táo bạo, đột phá trong cách sử dụng ngôn từ của Quang Dũng. Từ “đêm hơi” đã lột tả hết vẻ đẹp yên tĩnh và bí ẩn nơi thiên nhiên núi rừng hoang vu.
Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, một câu thơ chứa bảy tiếng, ngoài địa danh Mường Lát được nhắc tới thì những tiếng còn lại đều mang thanh bằng, khi đọc câu thơ lên, con người như được hòa vào với không gian yên bình, dịu êm và lãng mạn, tan vào hương hoa để cảm nhận được những vẻ đẹp thật diệu kỳ của nó. Hình ảnh con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến vừa thể hiện sự khắc nghiệt, vất vả, gian khổ lại vừa thể hiện sự thơ mộng, bay bổng và yêu đời.
Quang Dũng đã gắn bó thân thiết với thiên nhiên và núi rừng Tây Bắc trong suốt một chặng đường hành quân dài, từng địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến tiếp nối nhau một cách khéo léo để đi vào những vần thơ êm dịu, mỗi nơi có bước chân nhà thơ từng đi qua thì tâm hồn nhà thơ cũng tràn đầy yêu thương, thân thuộc, ta cũng bắt gặp được những tình cảm vô cùng thắm thiết, sâu nặng như thế quá những câu thơ của Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Mảnh đất Tây Bắc trở nên hoang sơ, xa xôi một cách lạ thường với những địa danh như: sông Mã, Mường Lát, Pha Luông, Sài Khao, Mường Hịch, Mai Châu…từng được in dấu chân của những người chiến sĩ.
Ba câu thơ tiếp theo đã khắc họa rất rõ nét về địa hình hiểm trở của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Quang Dũng đã sử dụng những đặc trưng trong văn học, đó là lấy ngôn từ làm vật liệu để xây dựng lên hình tượng nhằm lột tả hết sức chân thực về địa hình núi rừng hiểm trở thông qua nhiều từ láy thể hiện sự giàu khả năng tạo hình. Từ “khúc khuỷu” để diễn tả con đường có phần gồ ghề, gập ghềnh, quanh co, uốn lượn, khó đi. Từ “thăm thẳm” vừa để diễn tả độ cao chót vót, lại vừa có thể gợi cảm nhận về độ sâu vun vút. Điệp từ “dốc” đứng ở đầu mỗi vế có vai trò tô đậm thêm cho những con đường dốc cao nối liền nhau đến vô tận. Người lính vừa leo hết con dốc này lại tiếp tục phải đối mặt với những con dốc khác, mà con dốc sau lại có phần hiểm trở hơn con dốc trước, nhiều khó khăn và gian khổ chồng chất đã thách thức tinh thần người lính. Từ láy “heo hút” gợi tả không gian hoang sơ, lạnh lẽo và hiu quạnh, xa cách với cuộc sống của người dân. Thiên nhiên đa sắc là nền giúp hình ảnh của người chiến sĩ hiện lên với những vẻ đẹp vô cùng ấn tượng. Người lính phải đi hành quân trên quãng đường khó khăn với biết bao gian nan thử thách đầy nguy hiểm và thậm chí phải hy sinh tính mạng. Họ phải hành quân qua những địa danh hết sức xa lạ, chưa bao giờ được đặt chân đến khác xa với Hà Thành quê hương mà họ lớn lên. Thời tiết ở đây cũng khắc nghiệt, khiến cho quãng đường hành quân của người lính tăng thêm phần khó khăn, vất vả và gian khổ mà ta đã bắt gặp trong những câu thơ của Tố Hữu:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “súng ngửi trời” vừa để diễn tả độ cao của địa hình lại vừa hé mở sự vui đùa, nghịch ngợm, nhí nhảnh mang khẩu khí của những người lính Tây Tiến. Bởi văn học sử dụng những ngôn từ độc đáo làm chất liệu xây dựng lên hình tượng cho các nhân vật, do vậy trong bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Quang Dũng đã sử dụng rất nhiều lớp ngôn từ tinh túy để khiến cho những câu thơ như “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” có phần hóm hình, tinh nghịch mà lại không kém phần hào hoa của những chàng trai trẻ Hà thành hoa lệ, các anh đều đã chiếm lĩnh được tầng cao của núi đèo, khiến cho hình tượng người lính Tây Tiến được sánh ngang tầm vũ trụ. Ngỡ như các anh đang được đi mây, cưỡi trên mây để đi lên đỉnh trời. Và khi đã xuất sắc chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất thì “súng” các anh cũng đã “ngửi trời”! Có một tiếng cười vui, thú vị mà lại tinh nghịch của người lính hào hoa Hà Nội khi đã chinh phục được đỉnh cao nhất. Không phải súng chạm trời mà lại là súng ngửi trời. Khẩu súng thông qua nhân hóa được ví như người đã khiến cho câu thơ trở nên hóm hỉnh và tinh nghịch, mang theo cả chất hào hoa của những chàng trai vùng đất kinh thành hoa lệ lên để đánh giặc miền Tây. Câu trên thì nặng nhọc, gấp gáp; câu dưới thì nhẹ nhàng và thơ mộng trong niềm tự hào của những người chiến thắng. Ta có thể hiểu đây không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên núi rừng mà chính là đỉnh cao của sự chiến thắng trong tinh thần và nghị lực của những người chiến sĩ. Hình ảnh ấy hiện lên mĩ lệ không kém gì “đầu súng trăng treo” của nhà văn Chính Hữu cả! Cách chọn lọc từ ngữ hết sức thông minh và sắc sảo đã khiến cho cả ba câu thơ không một câu nào có sự non nớt, bằng phẳng, mà trái lại câu nào cũng thể hiện nội lực riêng, tạo nên một khí vị chung cho toàn bài thơ, một khí vị đầy bi hùng, hoang sơ và quả cảm.
Câu thơ thứ ba với phương thức nghệ thuật đối lập, tương phản kết hợp với điệp từ “ngàn thước” đi nhịp 4/3 khiến cho câu thơ như bị đôi nhằm gợi liên tưởng đến những vách núi dựng đứng tạo cảm giác hết sức ghê rợn, hãi hùng. Thiên nhiên lúc ấy không phải là đối tượng để thưởng thức nữa mà lại trở thành đối thủ thách thức ý chí kiên cường của con người. Ta nhớ tới những vần thơ cũng thể hiện sự hiểm nguy trên đường đi trong những câu thơ Lý Bạch:
“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên”
(Đường Thục khó đi).
Tô đậm thêm địa hình hiểm trở cũng chính là cách nhà thơ làm nổi bật được những khó khăn, vất vả, gian khổ trên quãng đường hành quân của người lính đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người, kiên cường bất khuất của những người lính Tây Tiến. Nó khẳng định được chí khí và quyết tâm của những người chiến sĩ chinh phục được mọi tầm cao đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua/Kẻ thù nào cũng đánh thắng!” nó làm ta liên tưởng tới hình ảnh người lính trong thơ của nhà thơ Tố Hữu:
“ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.”
(Lên Tây Bắc)
Câu thơ thứ tư “Nhà ai pha Luông mưa xa khơi” mang đậm chất lãng mạn trong hồn thơ của tác giả Quang Dũng. Nếu ba câu thơ phía trên sử dụng nhiều thanh trắc khiến cho âm điệu của câu thơ trở nên nặng nề, gợi tả sự mệt mỏi của người lính khi phải trèo đèo lội suối thì đến câu thơ này, nhà thơ đã hoàn toàn sử dụng thanh bằng khiến cho âm điệu trở nên nhẹ nhàng, dịu dàng, tha thiết hơn rất nhiều. Âm điệu đó cũng hé mở được tâm hồn nhẹ nhõm, thanh thản và tươi mát của những người lính trẻ trong quãng đường hành quân đầy gian nan, vất vả. Không chỉ miêu tả được sự khắc nghiệt của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà nhà thơ còn cho thấy được nét đẹp có phần thơ mộng, tình tứ và mềm mại, đáng yêu vô cùng của thiên nhiên tạo hóa nơi đây. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nên sự bí ẩn khiến cho độc giả cảm thấy tò mò. Liệu rằng phía sau màn mưa ấy, trong một căn nhà nhỏ ở vùng quê là bóng dáng của một thiếu nữ đảm đang hay cũng có thể là hình bóng còm cõi của một người mẹ nuôi quân?
Bốn câu thơ cuối kết hợp với nhau tạo nên một âm hưởng vô cùng đặc biệt. Nếu ba câu thơ đầu tiên được vẽ bằng những nét vẽ gân guốc khi tác giả liên tục sử dụng biện pháp nghệ thuật đối, ngắt nhịp, sử dụng nhiều thanh trắc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ lên bằng những đường nét mềm mại với toàn thanh bằng. Bút pháp tạo hình hệt như một bức tranh thủy mặc – một vài nét chấm phá gợi tả không gian ba chiều vừa cao, lại sâu và rộng. Chiều nào cũng để lại dấu ấn sâu đậm trong bức tranh tuyệt đẹp kia.
Hai câu thơ tiếp theo lại tập trung khắc họa lên sự hy sinh anh dũng của những người lính, coi cái chết chỉ nhẹ tựa lông hồng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Từ láy dãi dầu bộc lộ sự khó khăn, vất vả và nhọc nhằn trong cụm từ “dầu sương dãi nắng”. Cụm từ “không bước nữa” thể hiện được sự kiệt sức, không thể bước được nữa. Có thể vì quá mệt mỏi nên các anh đã tì súng nằm nghỉ một chút hay cũng có thể là cách nói giảm nói tránh “bỏ quên đời” nhằm xoa dịu đi sự mất mát, sự hy sinh thầm lặng khiến cho toàn bộ câu thơ trở nên bi mà không lụy. Cõi chết đến với những người lính một cách nhẹ nhàng, thanh thản, hệt như đi vào giấc ngủ. Thấy được sự hy sinh anh dũng của những người lính Tây Tiến, thấy được những khó khăn gian khổ khiến cho họ phải đối diện với cái chết, cùng với đó là vẻ đẹp mộc mạc của người lính, sẵn sàng hy sinh với những tư thế sẵn sàng chiến đấu, dáng vẻ của các anh tượng trưng cho một thế hệ trẻ thời kì kháng chiến, như cây súng giữ chắc trong tay lưỡi lê sáng ngời, khiến cho hàng vạn quân thù phải bàng hoàng khiếp sợ, hình bóng của các anh đã thẳng tiến vào lịch sử để trở thành một tư thế Việt Nam tự hào cho các thế hệ. Đó cũng thể hiện được sự hiên ngang của người lính, các anh coi cái chết chỉ nhẹ tựa lông hồng. Tư thế ấy cũng đã được nhà thơ Tố Hữu ca ngợi trong bài thơ Trăng Trối:
“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”
Khi đọc câu thơ ấy lên thì ta mới có thể thấu hiểu được toàn bộ hiện thực của những người chiến sĩ trong chiến tranh, hiện thực ấy là sự hy sinh, mất mát và hiện thực ấy là cả một bài ca mà ta sẽ không thể quên với giai điệu vô cùng hào hùng về những người đã ngã xuống, gửi trọn đời để cho đất nước được bình yên, độc lập, để ta có được cuộc sống hạnh phúc ngày hôm nay. Câu thơ đã thể hiện được toàn bộ cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ khắc nghiệt, hiện thực của chiến tranh khốc liệt thảm thương được khắc họa vô cùng rõ nét, nhưng cũng chính vì thế đã nêu cao được tinh thần kiên cường bất khuất ý chí chiến đấu và tư thế sẵn sàng hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Đó cũng chính là hình ảnh của những người lính trong thơ Chính Hữu:
“Bạn ta đó chết trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong”
(“Giá từng thước đất”-Chính Hữu)
Hai câu thơ tiếp theo sẽ tập trung vào việc làm nổi bật lên sự bí ẩn đầy linh thiêng của thiên nhiên rừng núi Tây Bắc:
“Chiều chiều oai linh thác ghầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa được sử dụng khá nhiều như “thác gầm thét”, “cọp trêu người” khơi gợi lên những âm thanh vô cùng ghê rợn, đặc trưng của những khu rừng già, đem lại cảm giác hết sức hãi hùng cho con người, thể hiện thiên nhiên khắc nghiệt mà người lính đã phải vượt qua. Biện pháp nghệ thuật tương phản kết hợp với đối lập và điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” có vai trò làm nổi bật lên được sự nguy hiểm, chết chóc luôn rình rập những người lính ở tất cả các thời điểm. Dòng chảy thời gian vô tận cứ như vậy lặp đi lặp lại đã khiến cho rừng già trở thành chốn “rừng thiêng nước độc” đối với những người lính trong đoàn binh Tây Tiến. Khó khăn và gian khổ vẫn luôn luôn hiện hữu trước mắt của những người lính, nhưng họ vẫn luôn dồn toàn tâm toàn lực vào việc tiếp tục tiến bước trên con đường đầy thiêng liêng đó:
“Đoàn vệ quốc một lần ra đi
Nào có xá chi đâu ngày trở về”
Như vậy thiên nhiên Tây Bắc không những hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội mà nó còn chứa đầy những bí ẩn oai linh. Sống chiến đấu ở trên một địa bàn như thế đòi hỏi những người lính phải thực sự gan dạ, mạnh mẽ, dũng cảm cực kì. Oai linh, bí ẩn là vậy nhưng nhà thơ Quang Dũng đã rất tinh tế khi “thả” một chữ “trêu” vào trong câu thơ. Chính cách sử dụng từ độc đáo của tác giả đã làm lộ ra được sự vui tươi, lạc quan và đầy khẩu khí chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến. Họ không ngại khó khăn mà vẫn tiếp tục bước đi trên con đường hành quân, đối với họ thì bây giờ thú dữ không còn là mối nguy hiểm nữa mà nó chỉ như trò chơi giao đấu giữa hai bên. Cách nói như vậy khiến cho câu thơ không còn quá sức nặng nề nhưng vẫn tôn lên được vẻ đẹp của những người chiến sĩ.
Sau một chặng đường hành quân vô cùng gian khổ, vất vả thì giờ đây người lính mới có dịp dừng chân tại một bản làng với tên gọi rất đỗi thơ mộng Mai Châu, được toàn thể đồng bào dân tộc đón tiếp vô cùng nồng nhiệt:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ trên đã thể hiện được tình quân dân thắm thiết. Từ cảm thán “nhớ ôi” đã thể hiện rõ sự nhớ nhung da diết, dạt dào tình cảm, tác giả như phải thốt lên, muốn bộc lộ nỗi nhớ đó.
Trải qua khoảng thời gian hơn một nửa thế kỉ, những vần thơ trong bài thơ “Tây Tiến”, đã vượt qua không biết bao nhiêu lớp bụi thời gian để giờ đây in sâu và bám rễ vào tư tưởng của các thế hệ độc giả người Việt. Xin phép được mượn lời của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thay cho lời kết như sau: “Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng… một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người”…
Khóa học đầu tiên và duy nhất xây dựng lộ trình thi tốt nghiệp THPT đạt 27+ . Đăng ký để trải nghiệm buổi học thử đầy thú vị bạn nhé!
Khi nhắc tới Quang Dũng, không thể bỏ qua tác phẩm “Tây Tiến” như một chứng nhân lịch sử cho một thời kháng chiến oanh liệt. Bài viết trên giúp các em phân tích khổ 1 Tây Tiến về cả nghệ thuật và nội dụng để thể hiện lên hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc cùng hình ảnh người chiến sĩ Tây Bắc qua những kỉ niệm đáng nhớ được mô tả vừa chân thật lại đầy chất thơ. Các em hãy theo dõi bài viết để nắm được cách phân tích sao để đạt được điểm cao nhất với đề bài này. Ngoài ra, để học những kiến thức thú vị, bí quyết đạt điểm cao của môn ngữ văn và các môn học khác, nhanh tay truy cập website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học với thầy cô VUIHOC ngay nhé!
>> Mời các bạn tham khảo thêm:
- Kết bài Tây Tiến
- Mở bài Tây Tiến
- Phân tích Tây Tiến