Bài văn phân tích Việt Bắc của bạn sẽ hay, ấn tượng và đạt điểm cao nếu như bạn xem hết những nội dung dưới đây…
Nội dung bài viết gồm
- Nói rõ bố cục phân tích tác phẩm
- Phân tích nghệ thuật và ý nghĩa nội của từng đoạn thơ.
- Bài văn mẫu phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất
- 15 bài văn hay tham khảo
Không chỉ giúp các em làm tốt bài phân tích toàn bộ tác phẩm mà còn làm tốt các bài cảm nhận hay phân tích từng đoạn thơ trong bài:
Chúng ta cùng bắt đầu….
Bố cục phân tích bài Việt Bắc
Bố cục phân tích Việt Bắc
Bố cục bài thơ Việt Bắc gồm:
1. 8 câu thơ đầu: Lượt lời đầu tiên
Từ câu thơ đầu đến câu thơ thứ 8: “Mình về mình có nhớ ta?” đến “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
– 4 câu thơ đầu : Lời của nhân dân với cán bộ.
– 4 câu thơ sau: Lời của cán bộ với nhân dân.
2. 16 câu tiếp theo: Lượt lời thứ hai
Từ câu thơ 9 đến câu thơ 24
– 12 câu thơ đầu: Lời của nhân dân dành cho cán bộ
– 4 câu thơ tiếp : Lời của cán bộ dành cho nhân dân
3. Các câu còn lại: Nỗi nhớ của cán bộ về Việt Bắc
Từ câu thơ 25 đến câu 90:
– Bản tình ca: Bức tranh tứ bình
– Bàn hùng ca: Cảnh Việc Bắc ngày ra trận
Hướng dẫn chi tiết và các đoạn văn mẫu hay nhất giúp các bạn cùng tham khảo.
Mở bài phân tích Việt Bắc
1. Tác giả Tố Hữu
– Tố Hữu (1920-2002) trưởng thành trước năm 1945 (trước cách mạng tháng 8)
Giai đoạn cách đồng thơ ca Việt Nam liên tục đón các làn gió của thơ mới thổi qua. Nhiều tên tuổi nổi tiếng : Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu… Mỗi người có một phong cách, và sở trường thơ ca riêng.
– Tố Hữu không viết thơ mới
+ May mắn giác ngộ lý tưởng Cách mạng ➞ ý thức được vai trò của người cầm bút sáng tác.
+ Ông là người chiến sĩ Cách mạng trên mặt trận văn hóa – văn nghệ.
– Ông khẳng định tài năng của mình ở phong cách thơ trữ tình – chính trị
+ Trữ tình : Bày tỏ cảm xúc và lưu giữ tình cảm
+ Chính trị : Con đường thơ luôn song hành với con đường cách mạng.
⇒ Ông hướng đến vẻ đẹp của thơ ca truyền thống
Tham khảo thêm: Quan điểm sáng tác của Tố Hữu (Wikipedia)
– Nhận định về nhà thơ Tố Hữu
Người ta gọi Tố Hữu là
- “nhà thơ của cách mạng”
- “nhà thơ của nhân dân”
- “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”
- “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”
- ”một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”
- “một viên ngọc trong nền văn hóa Việt Nam”
- “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”
Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế.”
Trần Đăng Khoa
2. Tác phẩm Việt Bắc
– Hoàn cảnh sáng tác
+ Tháng 7 – 1954: Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ được kí kết. Hòa bình lập lại, một trang sử mới mở ra cho toàn dân tộc
+ Tháng 10/1954: Những người cán bộ từ chiến khu Việt Bắc trở về miền xuôi tiếp quản Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
– Nội dung và ý nghĩa
+ Việt Bắc luôn được nhớ đến như một bảng tổng kết về những năm tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ.
+ Bài thơ viết về một cuộc chia tay giữa cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc
Bạn có thể tham khảo thêm: tuyển chọn các mở bài Việt Bắc đặc sắc được ĐọcTài Liệu biên soạn.
Phân tích bài thơ Việt Bắc đầy đủ và chi tiết nhất
Chúng ta bắt đầu phân tích chi tiết về bài thơ theo bố cục làm rõ ở trên:
1. Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc
– 4 câu đầu: Lời của nhân dân, thốt lên thành lời.
“- Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.“
+ Gồm những câu hỏi tu từ, không cần câu trả lời
➞ Bộc lộc cảm xúc của nhân vật chữ tình.
+ “Mình” và “Ta” tuy hai mà một, tuy một mà hai
➞ Như là khúc hát ví dặm của người ở, người về
+ “Mười lăm năm ấy”: Từ năm 1940 đến năm 1954
+ Liên tục sử dụng phép điệp từ “Nhìn” và “Nhớ” là lời của nhân dân nhắc nhở người cán bộ ra về.
+ “Cây“,”Núi“, “Sông” “Nguồn” là những danh từ thể hiện về không gian nhưng lại có ý nghĩa bao trùm lên nhau , cội – rễ.
- Có núi thì mới có cây
- Có nguồn thì mới có sông
➞ Có Việt Bắc thì mới có ngày miền Bắc hoàn toàn được giải phóng.
⇒ 2 câu thơ đầu đề cập đến thời gian. 2 câu thơ sau đề không gian.
– 4 câu tiếp theo: Lời của cán bộ bày tỏ cảm xúc với nhân dân
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Lời của cán bộ với nhân dân những khẳng định, là những cung bậc cảm xúc và là những hành động.
+ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, thể hiện sự vô định, “Tiếng ai” đó là chính tiếng của nhân dân
➞ Thể hiện tình cảm một cách ý nhị, kín đáo.
+ Nhà thơ sử dụng cùng một lúc 3 từ láy để miêu tả về cảm xúc của những người cán bộ ra về
- “tha thiết” : Là cảm xúc nỗi niềm canh cánh, đau đáu khôn nguôi.
- “bâng khuâng” : Thể hiện nhiều những cung bậc cảm xúc khác nhau.
- “bồn chồn”: đi đi, lại lại.
➞ Tác giả đã thể hiện tình cảm và tấm lòng của những người cán bộ ra về. Họ luôn luôn nhớ , yêu thương và cánh cánh về Việt Bắc.
+ “Áo chàm” là thủ pháp nghệ thuật hoán dụ kép ➞ Áo chàm là áo của người dân tộc Tày ➞ Người dân tộc Tày chiếm số đông ở Việt Bắc ➞ “Áo chàm” là để chỉ nhân dân Việt Bắc.
+ “Cầm tay” : Là một hành động nhỏ nhưng chứa nhiều ý nghĩa. Cầm tay là truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và tính cảm.
Các em có thể khảo thêm: Những bài phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc để tìm hiểu đầy đủ hơn
2. Phân tích 16 câu thơ tiếp theo bài Việt Bắc
– 12 câu đầu: lời của nhân dân
Mình đi, có nhớ những ngày …. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
+ “Mình đi, có nhớ những ngày” : Vừa là hỏi, vừa là dãi bày cảm xúc hướng về những kỉ niệm với cán bộ.
“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
+ Tác giả liệt kê ra được 3 vấn đề về thời tiết khắc nghiệt ở Việt Bắc: “mưa nguồn“, “suối lũ“, “mây mù”
+ “mây” và “mù” luôn luôn là thể hiện những khó khăn trong những ngày đầu những người cán bộ đặt chân lên Việt Bắc (một tương lại phía trước khá mờ mịt)
“Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mốt thù nặng vai?”
+ “nhớ chiến khu” : Nỗi nhớ ấy lại hướng về chiến khu Việt Bắc
+”miếng cơm chấm muối“: Nhân dân Việt Bắc luôn dành cho cán bộ những gì là tốt nhất của họ.
+ “mối thù nặng vai” : Trách nhiệm của người cán bộ là vô cùng lớn lao.
“Mình về, rừng núi nhớ ai ? Trám bùi để rụng, măng mai để già”
+ “ai” : là nói đến cán bộ, đây là một cách bày tỏ tình cảm một cách ý nhị, không nói thẳng.
+ “Trám bùi để rụng, măng mai để già” : Nghệ thuật lấy cái có là trám bùi, măng mai những sản phẩm vốn có của Việt Bắc để nói về cái không là sự hụt hẫng trong lòng của nhân dân ở lại khi cán bộ đã ra về.
➞ Khi cán bộ đã về thì Trám cũng chỉ để rụng, măng mai cũng để già
“Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
+ “nhớ những nhà” : Đó là những mái nhà, bản làng đầy ắp những tình cảm quân – dân.
+ “Hắt hiu lau xám” : là những mái lán, lều lợp bằng cỏ lau trở nên cô đơn, vắng vẻ khi cán bộ đã đi
+ “đậm đà lòng son” : Tình cảm, tấm lòng thủy chung giữa nhân dân và cán bộ
➞ Dù thiếu thốn về cái ăn , chốn ở thế nhưng nhân dân vẫn luôn ở cạnh người cán bộ.
“Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”
+ Vì là một người chiến sĩ cách mạng làm thơ nên Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép lịch sử thời sự vào thơ ca của mình. Việt Minh và kháng Nhật đều là những tổ chức Cách mạng của Việt Nam.
“Mình đi, mình có nhờ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Lời ướm hỏi của nhân dân
+ 3 đại từ “mình” nghĩa là cán bộ ra về, liệu có nhớ đến chính họ khi còn ở Việt Bắc hay không.
+ ” Tân Trào, Hồng Thài, mái đình, câu đa”: Tố Hữu cố gắng làm mờ đi nét chính trị trong thơ ca, làm nổi bật lên nét trữ tình trong tác phẩm này của mình
⇒ Tất cả 12 câu thơ là nỗi lòng của nhân dân, gợi nhớ lại những kỷ niệm của cán bộ với nhân dân.
– 4 câu thơ sau: Lời của cán bộ với nhân dân
+ “Ta với mình, mình với ta” đều là những lời khẳng định của cán bộ với nhân dân. Nhân dân yêu thương họ bao nhiêu thì cán bộ yêu thương nhân dân bấy nhiêu
+ “Lòng ta, sau trước,mặn mà đinh ninh” : Cả 4 từ đều khẳng định tấm lòng thủy chung, trước sau như một của cán bộ với nhân dân
+ “Mình đi, mình lại nhớ mình” : Câu trả lời cho câu thơ “mình đi, mình có nhớ mình”
+ “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…” : Tình cảm của cán bộ với nhân dân là tình cảm biết ơn.
3. Phân tích từ câu 25 đến câu 90 bài Việt Bắc
Những câu thơ còn lại của tác phẩm là nỗi nhớ của cán bộ về Việt Bắc. Hãy cùng phân tích và tìm hiểu chi tiết hơn:
a. Phân tích nỗi nhớ Việt Bắc
– Nỗi nhớ cảnh
Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
+ Tố Hữu ví nỗi nhớ của cán bộ với nhân dân như nỗi nhớ người yêu ➞ ông đã trữ tình hóa một thứ tình cảm khô khan như tình cảm quân – dân để trở thành những người yêu, người thương của nhau.
+ Cảnh vật hiện lên ở Việt Bắc ở rất nhiều những khoảnh khắc về thời gian
- “Trăng” : buổi tối
- “nắng” : buổi chiều
- “bản khói cùng sương“: buổi sáng
+ Ở đó còn có những không gian “đầu núi” “lưng nương”, rừng nứa, bờ tre” và “Ngòi Thia” “sông Đáy”,”suối Lê” ➞ không gian có những địa điểm có tên và có những địa điểm không tên.
⇒ Nỗi nhớ cảnh của Việt Bắc lan tỏa trong không gian và ngự trị cả thời gian.
+ Cảnh vật ở Việt Bắc không hề trở nên cô đơn và rợn ngợp mà trở nên vô cùng ấm áp khi tất cả từ ngữ đều xoay quanh hình ảnh “Bếp Lửa” ➞ hình ảnh này thực sự ám ảnh đối với những con xa quê hương.
Để có những cảm nhận đầy đủ hơn về đoạn thơ nay, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người yêu trong bài Việt Bắc.
– Nỗi nhớ người
Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
+ “đắng cay” “ngọt bùi” : Cán bộ và nhân dân cùng nhau san sẽ những khó khăn và chia sẻ cùng nhau niềm vui chiến thắng
+ “Thương nhau” : Nhà thơ thể hiện tình cảm đại diện cho cả một thế hệ, cộng đồng và một tập thể người.
+ 3 từ “chia” “sẻ” “cùng” : Nhân dân Việt Bắc vẫn chủ động gắn bó, chia sẻ, đùm bọc và giúp đỡ cán bộ.
+ Từ những hình ảnh nhỏ bé nhất như củ sắn lùi, bát cơm nhỏ, chăn sui… thể hiện sự thiếu thốn và đói khổ nhưng nhân dân vẫn chia sẻ với cán bộ. ➞ Ta thấy được tấm lòng của nhân dân với cán bộ. Việt Bắc một mảnh đất tuy nghèo cơm, nghèo gạo nhưng đầy ắp nghĩa tình.
+ Nỗi nhớ lớn nhất với Tố Hữu là hình ảnh người mẹ trẻ có con nhỏ lao động trong một hoàn cảnh vất vả, khắc nghiệt.
+ Các động từ “Địu“,”lên” “bẻ” ➞ Ta thấy ở đó là những người Mẹ kháng chiến. Họ chắt chiu, tần tảo, họ lao động để dành một phần lương thực nhỏ bé ấy để phục vụ cho cách mạng và kháng chiến. Vô cùng đáng trân trọng.
– Nỗi nhớ âm thanh
Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
+ Tiếng “lớp học i tờ” : Tiếng đánh vần từ những lớp học bình dân học vụ, dù âm thanh được phát ra một cách ngây ngô nhưng nó lại vô cùng quan trọng bởi Đảng và Chí phủ nhận ra rằng chỉ có ánh sáng của con chữ mới giúp chiến thắng được giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
+ Dưới làn mưa bom bão đạn thì cuộc sống êm đềm và diễn ra. Tinh thần Việt Nam càng ở gần bom đạn thì càng cao hơn bom đạn. Họ vẫn trẻ trung vẫn xuân sắc, vẫn đợi chờ vẫn, vẫn tin tưởng về cuộc cách mạng chắc chắn thành công, thắng lợi.
b. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc
“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh tứ bình là những nét vẽ mà tác giả Tố Hữu đã phác họa về cảnh sắc và con người nơi đây với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng những hình ảnh đặc trưng rất riêng Việt Bắc, những ân tình mang phong vị Việt Bắc.
Hãy cùng phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc chi tiết hơn
+ Bức tranh mùa đông
- Thiên nhiên: Sắc xanh bao la của rừng núi điểm những bông hoa chuối đỏ tươi như bó đuốc sáng rực xua đi sự lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, thắp lên ngọn lửa ấm áp, mang lại ánh sáng hơi ấm cho nơi đây.
- Con người: ánh nắng phản chiếu vào những lưỡi dao tạo nên vẻ đẹp lấp lánh.
➞ Trước thiên nhiên bao la của núi rừng, con người trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn với hoạt động phát nương, làm rẫy. Thiên nhiên dường như đang hô ứng để làm bật lên hình ảnh của con người.
+ Bức tranh mùa xuân
- Thiên nhiên: sắc trắng của hoa mơ đặc trưng của núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân. ➞ Sắc trắng ấy làm bừng sáng cả khu rừng, làm dịu mát tâm hồn con người.
- Con người: Đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, cần mẫn vào từng sản phẩm lao động.
⇒ Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn, vẻ đẹp của sự tài nghệ, thuần thục mà cũng hết sức giản dị.
+ Bức tranh mùa hạ
- Thiên nhiên:
+ “rừng phách đổ vàng” : Màu vàng rực của thiên nhiên dường như chuyển đột ngột qua từ “đổ” hòa quyện với tiếng ve kêu khiến cho cảnh thêm sinh động, có hồn và tưng bừng hơn.
+ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi nhiều liên tưởng: Có thể là màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống, cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa
- Con người: Con người vẫn tiếp tục ở trạng thái cần cù lao động, tuy xuất hiện một mình nhưng lại không gợi cảm giác buồn bã, đơn độc, bởi có sự đồng điệu, hô ứng với thiên nhiên đang ở độ chín, độ đẹp nhất.
⇒ Vẻ đẹp của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người nơi đây.
+ Bức tranh mùa thu
- Thiên nhiên: ánh trăng dịu nhẹ, huyền ảo gợi không khí thanh bình, yên ả ➞ Ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do chiếu sáng lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc.
- Con người: Con người vẫn say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành ➞ Hình ảnh con người được khai thác thông qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc đó là lối hát giao duyên, đó là tiếng hát ân tình, thủy chung.
⇒ Sự hòa quyện giữa cảnh và người trong bức tranh theo từng mùa đã nói lên nét đẹp tâm hồn của con người nơi đây.
c. Phân tích cảnh ra trận trong bài Việt Bắc
Cảnh ra trận trong tác phẩm có 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn cầm cự : Từ “nhớ khi giặc đến giặc lùng” đến “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng“
- Giai đoạn phòng ngự : Từ “Ai về ai có nhớ không?” đến “Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…“
- Giai đoạn phản công : Từ “Những đường Việt Bắc của ta” đến “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Hãy cùng tìm hiểu chi tiết hơn về các giai đoạn để có thể phân tích trọn vẹn cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc:
– Giai đoạn cầm cự
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng”
+ Điệp từ “giặc” : Thể hiện thế giặc mạnh trong những ngày đầu đặt chân lên Việt Bắc.
“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
+ Sử dụng 3 “rừng” và 2 từ “núi” : Thể hiện lý do tại sao Việt Bắc được lựa chọn làm căn cứ địa cách mạng, quê hương của kháng chiến
➞ Việt Bắc là thiên nhiên thế trận.
“Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”
2 câu thơ tương phản với nhau:
+ “bốn mặt sương mù” : Nói về những khó khăn và tương lai mịt mù ở phía trước
+ “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” : Sức mạnh đoàn kết của thiên nhiên và con người làm nên sức mạnh nội lực của dân tộc để vượt qua mọi khó khăn.
– Giai đoạn phòng ngự
Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
+ Nghệ thuật liệt kê
+ Chúng ta đã dành được những chiến thắng nhỏ nhưng vô cùng quan trọng
➞ Chúng ta đã bắt đầu đã dành được đất đai.
– Giai đoan phản công: Nhớ ngày ra trận
Cảnh ra quân
+ “Những đường Việt Bắc của Ta” : Không chỉ đơn thuần là những con đường ở Việt Bắc mà là con đường của cách mạng, kháng chiến đầy máu lửa và những chiến công hiển hách để làm chủ đất nước.
+ “Đêm đêm rầm rập như là đấp rung“: Mô tả về âm thanh cho thấy hào khí rung chuyển đất trời của cả một dân tộc hành ra trận.
+ “Quân đi điệp điệp trùng trùng” : Mô tả về hình ảnh, nhìn đoàn quân Việt Nam ở tầm rộng.
+ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” : Nói lên vẻ đẹp những người lính, người anh hùng được “ánh sao” là lý tưởng chiến đấu soi đường chỉ lỗi.
+ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Nói lên vẻ đẹp của những đoàn dân công.
- “đỏ đuốc” : sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ hướng vận động từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng.
- “Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay” : Nghệ thuật nói quá để thấy vẻ của con người Việt Nam, những con người làm nên điều kỳ diệu của thế kỷ 20, và chỉ có những đoàn dân công của Việt Nam mới có thể làm lên những điều kỳ diệu. Họ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc kháng chiến nhân dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
+ “Nghìn đem thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Sử dụng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập giữa 2 câu thơ:
- Câu thơ đầu thể hiển sự khó khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất trong những ngày đầu chống Pháp
- Câu thơ thứ 2 thể hiện “ngọn đèn pha” đã đánh tan lớp sương dày”. Ngọn đèn pha đến từ những đoàn xe
⇒ Chúng ta càng đánh lực lượng càng mạnh. Chúng ta đã khắc phục được những khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Chúng ta đã có những đoàn binh ra tuyền tuyến, pháo binh ra mặt trận và ở đó là một “ngày mai” huy hoàng, tráng lễ vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam.
Khúc ca khải hoàn
Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
+ Điệp từ “vui” là tiếng reo vui của hàng triệu trái tim của mọi con người Việt Nam khi miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng.
+ Nghệ thuật liệt kê: Tố Hữu chỉ ra hàng loạt các địa danh trên dải đất hình tia chớp của Tổ Quốc Việt Nam. Chiến thắng sau còn ròn rã hơn chiến thắng trước.
– Những câu thơ còn lại
“Ai về ai có nhớ không? … Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
+ Nói về những cuộc họp của những Cán bộ ở chiến khu Việt Bắc
+ Những hoạt động sôi nổi để triển khai công việc từ việc.
⇒ Vai trò của những cán bộ ở Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
“Ở đâu u ám quân thù Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
⇒ Việt Bắc đã thực sự trở thành một địa chỉ để tất cả mọi con người Việt Nam hướng về và tin tưởng. Dân tộc Việt Nam sẽ đi qua đêm trường của Cách Mạng đến bình minh của thời đại mới.
Kết bài phân tích Việt Bắc
Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
1. Giá trị nội dung
Việt Bắc chinh phục người yêu văn chương không chỉ bằng một bản tình ca thiết tha sâu lắng của cuộc chia tay của người ở người về mà còn là bản hùng ca chín năm kháng chiến hào hùng của dân tộc ta.
2. Giá trị nghệ thuật
– Giọng điệu thơ thủ thỉ, mộc mạc, tâm tình.
– Tố Hữu đã đem thơ ca để phục vụ kháng chiến.
– Việt Bắc được viết bằng phong cách nghệ thuật để từng vần thơ của ông bất tử với tháng năm.
Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua việc phân tích VIệt Bắc, ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.
Bài văn phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất
Dưới đây là bài mẫu phân tích tác phẩm Việt Bắc đặc sắc nhất. Những bài văn này sẽ giúp các em tham khảo, bổ sung các câu văn hay cho bài làm văn của mình:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Quả thật đúng như thế phải là con người yêu mảnh đất hóa tâm hồn ấy lắm mới có thể cảm nhận sâu sắc được cái tình mà nó đem lại đến vậy. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố Hữu người đọc lay động từng chút, từng câu chữ sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Điều này được khắc họa rõ nét trong bài thơ “Việt Bắc” một thi phẩm đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc, ca ngợi con người kháng chiến và cuộc sống chiến khu thời kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là bản tình ca thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ và kề vai sát cánh bên những người cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Chính vì thế bài thơ “Việt Bắc” được coi là một trong những đỉnh cao sáng tác của đời thơ Tố Hữu bài thơ được sáng tác nhân một sự kiện quan trọng diễn ra vào năm 1954. Đó là thời điểm quân và dân ta giành được thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký với ta hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc cơ quan trung ương đảng và cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội- thủ đô sao vàng nắng Ba Đình. Nhân sự kiện trọng đại đó tháng mười năm 1954, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, bài thơ ra đời trở thành khúc hùng ca, khúc tình ca, được biết bao thế hệ yêu thích và trân trọng gọi đó là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đúng như lời Chế Lan Viên tâm sự “Anh là một con chim vụ ở đường bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”.
Là nhà cách mạng nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà thơ kể chuyện một người nghệ sĩ chuyên viết tình ca, tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia li giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:
“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại- đồng bào Việt Bắc, trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà kết thành tiếng bày tỏ câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp, tình cảm của cán bộ cách mạng. khi về đến thủ đô Hà Nội rồi liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay không? Chữ “về” nghe sao mà tha thiết bâng khuâng đến thế? Có lẽ đây là nơi thấp nhất khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoản hụt hẫng trong tâm hồn, giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng một tình cảm chung của cả dân tộc vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình -ta”. Chúng ta đã từng gặp rất nhiều trong ca dao:
Mình nhớ ta như cà nhớ muối Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Hay cặp đại từ mình ta để diễn tả tình yêu đôi lứa:
Mình về ta chẳng cho về Ta nắm dải áo ta để câu thơ
Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình ta để diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ càng trở nên gắn bó gần gũi thân thiết. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi khám phá sự nhắn nhủ cán bộ về xuôi vừa để bày tỏ nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng mình. Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm. Đó là giai đoạn kháng chiến thủa còn Việt Minh một khoảng thời gian dài gắn bó với biết bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỉ niệm trong chiến đấu trong sinh hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.
Điệp từ “nhìn và nhớ” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm không gian và cả thời gian, như tha thiết thường trực trong lòng của người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây Về với Hà Nội của đèn đường của phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không? “Nhìn cây nhớ núi” là nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông nhớ nguồn” là nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn cách mạng. Có lẽ bởi vậy, nhà thơ chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình nói hộ biết bao trái tim và những cung bậc trước khi chia xa
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Có lẽ giờ đây Việt Bắc đối với những người cán bộ cách mạng chỉ là một thời đã xa nhưng vẫn hiện hữu trong ký ức. Nó như một nỗi ám ảnh thường trực như một mạch cảm xúc nóng đang chảy trong lồng ngực.
Qua bốn câu thơ ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố hữu, Ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí ” uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để nhắc nhở con cháu đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước. Sau này hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày bộc bạch cảm xúc của người ra đi. Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng xao xuyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Mở đầu đoạn thơ là đại từ phiếm chỉ “ai “vang lên một cách đầy tự nhiên.Đó chính là người ở lại, nhưng đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách lên vang vọng từ núi rừng Tây Bắc.Những cặp từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. “bâng khuâng” gọi trạng thái cảm xúc khó tả mơ hồ đan xen bởi buồn vui luyến tiếc nhớ nhung. Còn “ bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm, nôn nào khiến con người ta đứng ngồi không yên. Đúng như Tú xương đã viết:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”
Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vị tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài cho thấy hiệu quả diễn đạt thêm súc tích. Tâm trạng chia tay đầy lưu luyến ấy còn được thể hiện một cách tinh tế qua hai câu thơ tiếp theo
“Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Tình nghĩa sắt son mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia ly. Màu “áo chàm” đặc trưng cho những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Tố Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này, càng thể hiện sự gần gũi giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương nhưng chung một đất nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng trong lòng họ không ai bảo ai, đều chung một niềm tin chiến đấu chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc. Sắc áo chàm vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của những người con về xuôi, màu áo vừa khắc họa tính cách một mặt vừa thắm lên tấm lòng son sắc thuỷ chung của họ với cách mạng với kháng chiến.
Động từ “cầm tay” thể hiện sự gắn bó khăng khít yêu thương và đoàn kết đó là hành động thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Người ta cầm tay nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong kháng chiến “nắm tay” nhau để truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:
“Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đồng chí – Chính Hữu
Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào vì thế không nói nên lời. “Biết nói gì hôm nay” có lẽ không phải không muốn nói gì mà họ có quá nhiều điều muốn nói nên không biết nói gì vào lúc này, khi mọi lời nói trở nên bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao nhiêu tình cảm thân thương trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy xúc động. Dấu ba chấm xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài nối tiếp tình cảm hai bên.
Bốn câu thơ là lời đồng vọng nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng trong ngày chia tay. Tất cả đều được tái hiện qua cặp đại từ “mình ta”, thể thơ lục bát truyền thống với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ: hoán dụ, từ láy,… Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thiết tha, ân tình của nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai lời tâm tình của người dân Việt Bắc và những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm:
Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mại để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Lời nói mộc mạc giản dị, như thủ thỉ mà rót vào lòng người đi mình đi có nhớ rất ngọt ngào sâu lắng, mà lại thân thương gần gũi. Những ngày đó là khoảng thời gian gắn bó cuộc đời mình với chiến đấu với Việt Bắc và cả đồng bào Việt Bắc. Câu thơ mang dáng dấp của câu hỏi tu từ, cũng đồng thời gợi ra một khoảng thời gian ký ức đong đầy nhớ thương của đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Và những ngày ấy là:
“Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối muối thù nặng vai”
Tác giả đã liệt kê ra những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc. Qua đó khắc họa những khó khăn mà nhân dân Việt Bắc cùng cán bộ kháng chiến đã cùng nhau trải qua trong mười lăm năm gắn bó. Hơn nữa nghệ thuật đối lập “mưa nguồn suối lũ” “những mây cùng mù” đã gợi lên hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc rất đỗi thơ mộng và trữ tình.
Trong khung cảnh quen thuộc ấy hình ảnh “miếng cơm chấm muối” “ mối thù nặng vai”gợi ra những tháng ngày. khó khăn gian khổ và đầy thiếu thốn. Mặc dù trong gian lao thế nhưng họ cùng chung chí hướng cùng chung lý tưởng đó là mối thù sâu nặng đối với những kẻ cướp nước. Câu thơ thấp thoáng niềm tự hào, bởi mình và ta đã cùng nhau sát cánh trải qua những tháng ngày gian khổ sống chết bên nhau. Tố Hữu viết tiếp những dòng thơ thương nhớ :
Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Tất cả những điều đó như lần lượt theo dòng hồi ức mà tràn về trong nỗi nhớ của cả người đi lẫn người ở. Câu hỏi với sự ám ảnh của người đi người về cứ xoáy sâu vào tâm trí của người đọc. Qua nghệ thuật nhân hóa “rừng núi nhớ ai” nỗi nhớ như bao trùm lan tỏa khắp không gian của núi rừng Việt Bắc, rừng núi cũng dường như gần ngơ trước nỗi buồn chia xa.
Nhà thơ Tố hữu thật tinh tế khi lấy ” trám và măng” để gợi tả nỗi nhớ. Bởi đó là hai sản vật quen thuộc của núi rừng Việt Bắc: người ở lại đã lấy sự thừa thãi của cảnh vật để diễn tả nỗi trống vắng trong tâm hồn. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc trở nên trống trải buồn bã đến lạ thường. Cách giãi bày nỗi nhớ rất mộc mạc, giản dị chân thành mà tha thiết. Bên cạnh đó hình ảnh những nếp nhà Việt Bắc cũng được nhắc đến trong ý thơ. Tác giả đã đảo ” hắt hiu” lên đầu câu để nhấn mạnh sự vắng vẻ hoang vu của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh lau xám dường như rất quen thuộc đối với núi rừng hoang sơ:
“Ai đi biên giới cho lòng ta theo với Trăm ngàn lâu lau trắng có một mình”
Thủ pháp đối lập giữa hình ảnh trong câu thơ “hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” đã thể hiện đậm nét sự thủy chung, son sắt bền lòng của tình quân dân trên mảnh đất này. Nhìn từ xa đó là những ngôi nhà có sự heo hút nghèo nàn, đơn sơ nhưng ẩn sâu bên trong lại là trái tim ấm áp và tình cảm sắt son của đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “tấm lòng son “khiến ta gợi nhớ đến vẻ đẹp của người phụ nữ phong kiến trong thơ của Hồ Xuân Hương:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Những năm tháng gian nan vất vả thiếu thốn, khó tránh khỏi những đau thương khắc nghiệt của cuộc sống, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn cháy dữ dội những ngày tháng vẫn còn phải kháng Nhật thuở còn Việt Minh như đã in sâu trong tiềm thức trong trí nhớ:
Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Câu lục tác giả đã sử dụng cách xưng hô vô cùng độc đáo ba từ “mình” diễn tả hai ngôi hai từ “mình “đầu tiên ở ngôi thứ hai từ “mình” thứ ba ở ngôi thứ nhất. Từ đó tác giả muốn thể hiện “ta với mình “tuy hai mà một, quấn quý gắn bó không thể tách rời. Câu tóm đã khép lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử bằng nghệ thuật liệt kê. Đó là những địa danh địa điểm vô cùng quen thuộc có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Câu thơ đã gợi nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất là sự kiện cây đa Tân Trào.
Đó là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam) làm lễ xuất quân lúc đầu chỉ có 34 thành viên sau đó đã trở thành một quân đội lớn mạnh. Địa điểm thứ hai là mái đình Hồng Thái, nơi bác chủ trì cuộc họp quyết định cách mạng tháng tám . Chính quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp thành công giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Có lẽ tác giả nhắc lại những địa danh lịch sử nhằm nhấn mạnh câu hỏi để nhắc nhở và khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là thủ đô của kháng chiến. Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng trữ tình là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc:
Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Sâu nặng bền chặt tình “ta và mình” luôn khắc sâu và được hai bên ghi lòng tạc dạ. Đó là tình quân dân gắn bó như cá với nước, là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng là bài học cha ông vẫn còn nguyên giá trị.
Qua nghệ thuật lập kết hợp với đảo “ta, mình với” đã thể hiện được sự gắn bó tình cảm gần gũi của người ra đi dành cho người ở lại. “Mình và ta” là một quấn quýt yêu thương. Bên cạnh đó là nghệ thuật đối lập “sau và trước khẳng định tình cảm thủy chung trước sau như một không thay đổi. Đó không chỉ là tình cảm đối với người ở lại, mà còn là sự chung thủy gắn bó với cách mạng. Hai từ láy “mặn mà đinh ninh” vang lên một cách tự nhiên khẳng định đó là tình cảm chắc chắn bền vững không thay đổi theo thời gian. Hai câu thơ là lời thề lời hứa ra đi không quên cội nguồn Việt Bắc. Câu thơ gợi về một tứ Kiều:
“Vầng trăng vằng vằng giữa trời Đinh ninh hai mặt một lời song song”
Còn từ “lại” chính là đáp lại câu hỏi của người ở lại khẳng định nỗi nhớ thường trực không nguôi trong lòng của người ra đi. “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã mượn cách nói quen thuộc của ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Qua nghệ thuật so sánh nghĩa tình của người ra đi và người lại với nước trong nguồn. “Nước trong nguồn” thì không bao giờ vơi cạn và tình nghĩa cách mạng cũng thuỷ chung son sắt không bao giờ thay đổi.
Lời của người ra đi đáp lại tình cảm của người ở lại bằng những lời khẳng định chắc chắn đinh ninh, như một lời thề lời hứa thủy chung son sắt không bao giờ thay đổi. Tác giả đã tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đồng thời khẳng định tình cảm thủy chung son sắt. Đó là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Tính dân tộc đó mà thấm nhuần trong từng câu chữ của thi phẩm:
“Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Những ký ức như ngày nào dội về mỗi kỷ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Tác giả đã so sánh nỗi nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ người yêu. Có lẽ bởi khi nói về nỗi nhớ người yêu khiến cho con người ta bồn chồn đứng ngồi không yên. Đó là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không nguôi nhiều khi mãnh liệt và phi lý:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Qua đó, nỗi nhớ đã cho thấy mức độ tình cảm của người về xuôi dành cho Việt Bắc là vô cùng sâu nặng và tha thiết Có ai ngờ giữa không khí cách mạng cao trào lại hiện lên khung cảnh thiên nhiên lãng mạn đến vậy? “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”cảnh sắc nên thơ êm ả quá. Cả miền Việt Bắc như dịu êm, mờ ảo trong khói chiều làm mê đắm lòng người. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê hình ảnh thiên nhiên “trăng, núi, nắng , khói sương, rừng nứa bờ tre , sông suối. …Từ đó bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa một cách phong phú đa dạng đồng thời cũng rất lãng mạn thơ mộng và trữ tình. Thời gian thì cứ liên tiếp nhau lặp lại cùng không gian bao la của núi rừng. Dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ không gian và thời gian. Điệp ngữ “nhớ từng” được lặp lại hai lần như khắc sâu một lần nữa tình cảm sâu nặng da diết. Bên cạnh đó tác giả đã liệt kê một loạt các địa danh ngồi Thia sông. đáy, suối lệ đó là những địa danh thân thuộc gắn bó. Hơn nữa từ “vơi đầy” là chỉ sự phơi bày của nước dòng sông và cũng như nỗi nhớ dào dạt tha thiết của người về xuôi. Bức tranh thiên nhiên khép lại để mở ra một nỗi nhớ da diết hơn về con người Việt Bắc. “Sớm khuya” là khoảng thời gian trong ngày kết hợp với động từ “đi về” đã thể hiện sự vất vả chăm chỉ cần cù của người dân Việt Bắc.
“Người thương” ấy là những con người nghĩa tình, đã cùng cán bộ chia sẻ buồn vui, gánh vác gian khó. Đó có chăng là hình ảnh người mẹ, người em liên lạc, người con gái quả cảm hay người anh du kích trong thơ Chế Lan Viên:
“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”
Tưởng như câu thơ “Ta đi ta nhớ “đã khẳng định một cách chắc chắn đinh ninh tình cảm kiên định không thay đổi. Hơn hết cách nói “mình đây ta đó” thể hiện tình cảm khăng khít gắn bó. Chính vì thế họ đã trải qua những “đắng cay ngọt bùi” cho những gian khổ khó khăn cũng như niềm vui buồn trong mười lăm năm sâu nặng nghĩa tình. Thật tinh tế và khéo léo, qua cách Tố hữu đã đưa thành ngữ vào thơ một cách tự nhiên “đắng cay ngọt bùi”. Tất cả khó khăn ấy đầu khép lại bằng phép im lặng qua dấu ba chấm ở cuối câu, để thể hiện cảm xúc dâng trào không thể tiếp tục nói lên lời. Họ không chỉ trải qua khó khan, mà họ còn chia nhau “củ sắn lùi”,”bát cơm sẻ nửa” “chăn sui” qua liệt kê một loạt các hình ảnh phong phú sinh động và chân thực. Dường như tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống kháng chiến không chỉ ác liệt với kẻ thù, mà còn thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt.
Và có lẽ các động từ “chia sẻ” “đắp cùng” đã thể hiện chân thực cảm động tình cảm giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ chia sẻ với nhau từng miếng ăn ngày đói, hơi ấm trong những đêm đông giá lạnh. Chính những điều đó đã tiếp thêm động lực để cán bộ kháng chiến có thể chiến đấu để có thể vượt qua những gian khổ. Đó cũng chính là cội nguồn của nỗi nhớ. Nhưng cảm động hơn ở một khía cạnh khác đó là hình ảnh của người mẹ trong kháng chiến:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh nắng cháy lưng lên ảnh tả thực gửi mẹ Việt Bắc lao động trong điều kiện khắc nghiệt dữ dội nhất. Tố hữu đã sử dụng thành công các động từ địu, Bẻ để diễn tả sự vất vả của người mẹ Việt Bắc trong cuộc sống lao động. Người mẹ đã nhọc nhằn chịu thương chịu khó chắt chiu cho con và ủng hộ kháng chiến. Lúc này con người Việt Bắc hiện lên trong tứ thư của nhà thơ là những con người cần cù chịu thương chịu khó trong lao động, yêu thương ủng hộ kháng chiến, thủy chung với cách mạng. Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng biết ơn đối với những người mẹ kháng chiến. Hình ảnh của họ từng hiện lên rất xúc động trong thơ Thu Bồn.
“Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông Mẹ xoa đầu con Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng”
Hơn hết không chỉ là những con người cao cả ấy mà cả cuộc sống sinh hoạt ở Việt Bắc cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong trí nhớ của nhà thơ:
“Nhớ sao lớp học 1 tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vân ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nên cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ nhớ sao được nhắc lại hai lần thể hiện một nỗi nhớ da diết mãnh liệt khôn nguôi đang chào dâng ăm ắp trong lòng. Đó là hình ảnh của lớp học “i tờ ” là hình ảnh của những lớp bình dân học vụ xóa nạn mù chữ trong những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ ấy đã gọi xa cách đánh vần ngọng nghịu những nét chữ vụng về. Nhưng đằng sau đó là cả một sự cố gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của con người Việt Bắc. Bởi có lẽ biết chữ họ mới có thể tiếp cận được với thông tin kháng chiến để góp một phần công sức nào đó vào sự độc lập của dân tộc.
Hình ảnh những giờ liên hoan cũng được hiện lên với không khí vui tươi phấn khởi náo nức. Đó là những phút giây khiến cho con người kháng chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khó khăn gian khổ là thế nhưng đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc quan yêu đời tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của những con người Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang. Hai câu cuối âm thanh hiện lên vô cùng sinh động đã xua đi cái im lặng của núi rừng tiếng mõ rừng chiều chạy đêm nên cối suối xa. Đó là những âm thanh quen thuộc của Việt Bắc mang nét đặc trưng của núi rừng, gợi cuộc sống em đềm thanh bình êm ả. Thiên nhiên Việt Bắc cũng tạo nên một bức tranh tứ bình với phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông:
Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Câu hỏi tu từ vang lên, cũng là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi một câu hỏi phản phất hương vị ngọt ngào của tình yêu. Đó cũng là câu hỏi để gọi nhắc chứ không gọi câu trả lời. Vì có lẽ họ quá hiểu rõ lòng nhau. Một lần nữa ta lại bắt gặp giọng điệu ngọt ngào tha thiết qua cặp đại từ “mình ta”. “Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của núi rừng Việt Bắc.
Nhắc đến hoa là nhớ đến người dân Việt Bắc nơi đây. Hoa và người có sự hòa quyện gắn bó, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm sống động. Cấu trúc của khổ thơ rất độc đáo cứ một câu nói về cảnh lại là một câu nói về người, tạo nên bức tranh tứ bình cảnh với cảnh sắc bốn mùa. Trong nghệ thuật tứ bình phương Đông khi nói đến cảnh của thiên nhiên bao giờ cũng có hình ảnh của tùng, cúc, trúc, mai hay long, ly, quy, phượng, còn nói tới con người là ngư, tiêu, canh, mục. Còn ở đây Tố Hữu đã lãng mạn hóa núi rừng Tây Bắc tạo nên bức tứ bình riêng rất Việt Nam. Đầu tiên là cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Bức tranh mùa đông gợi lên bởi không gian mênh mông với chiều rộng của rừng xanh đại ngàn. Tất cả trở nên sáng hơn khi tô điểm trên nền màu xanh bát ngát của núi rừng, là màu đỏ tươi của hoa chuối đang nở rộ. Hai từ “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp xua đi cái hoang sơ lạnh lẽo vốn có của mùa đông. Nổi bật trên nền xanh ấy là hình ảnh con người trong một tư thế trên đỉnh đèo cao. Đó là tư thế của con người hiên ngang vững chãi làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng.
Không chỉ thế thì hình ảnh “dao gài thắt lưng” làm con người hiện lên trong lao động hằng ngày chăm chỉ cần cù. Nhưng đặc sắc hơn là cụm từ “nắng ánh”. Tác giả thật tinh tế khi đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất trong ngày. Đó là khi anh nắng rọi vào lối sau khiến con người trở thành điểm hội tụ của ánh sáng tỏa sáng trên đỉnh đèo cao. Có lẽ đây là một phát hiện độc đáo và sáng tạo trong cái nhìn quan sát đầy tinh tế và chi tiết của Tố hữu. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ heo hút, giữa trời cao và rừng rộng mênh mông con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở Việt Bắc. Khép lại bức tranh mùa đông là sự bao trùm với màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã làm cho không gian núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp trong trẻo lạ thường:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Đó là khi Việt Bắc vào mùa xuân. Chúng ta đã thấy hình ảnh ấy trong bài thơ “trường ca theo chân Bác”:
“Ôi sáng xuân nay Xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về … im lặng! Con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Tố Hữu đã sử dụng thành công động từ “nở” để miêu tả đưỢC sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp không gian núi rừng Tây Bắc. Hai từ “trắng rừng” đã làm cho không gian của núi rừng Việt Bắc như bừng sáng cả một khoảng trời, như được thay áo mới. Trên nền trắng tinh khôi ấy thì con người vẫn tỉ mỉ khéo léo cần mẫn trong công việc hằng ngày qua từ ” chuốt “. Đó là ngày đan nón một công việc truyền thống ở Việt Bắc. Từ đó về đẹp con người Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm trí của người ra đi trở thành một dấu ấn không thể nào phai mờ. Bức tranh mùa xuân qua đi màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve kêu rạo rực cả một góc trời Việt Bắc vào mùa hè. Đó là âm thanh rộn rã tươi vui một âm thanh rất đặc trưng để báo hiệu hè về:
Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình
Trong cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ông cũng đã từng nhắc đến tiếng ve như một dấu hiệu nhận biết hè sang:
“Dắng dỏi cầm vé lầu tịch dương”
Không chỉ là âm thanh mà cả hình ảnh cũng hiện lên với màu sắc vô cùng rực rỡ khi rừng phách đổ vàng.
Động từ “đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt lá phách rừng trút xuống khi có ngọn gió thoảng qua. Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau Sau lời giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ “đổ” ụp từ trời cao xuống khiến cả rừng cây óng ánh sắc vàng. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp sự chuyển đổi màu sắc trong bài thơ “Duyên” của Xuân Diệu :
“ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.
Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy nhiên là không hề có bất cứ màu sắc nào cả thay vào đó là hình ảnh của ánh trăng Khác với xu thế bình thường là xuân-hạ-thu-đông, mở đầu lại là mùa đông và kết lại bằng mùa thu.Bởi trong 9 năm ấy là từ mùa đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và khép lại bằng tháng 10/1954. Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát “ân tình” khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc. Với những nét phác họa đơn sơ, bình di, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.
Tuy cảm, xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng nhắc đến Việt Bắc nhắc đến Điện Biên Phủ, thì cũng không thể thiếu những hình ảnh của những người lính trên chiến trận. Mở đầu khúc hùng ca ta bắt gặp hình ảnh của những con người ra trận:
Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Hình ảnh những con đường ra trận dòng hoài niệm của người cán bộ với ăm ắp những niềm tự hào. Hai chữ “của ta” vang lên thật hùng hồn. Câu thơ giống như lời khẳng định chắc nịch. Đọc xong sáu chữ ấy mà khát khao được đứng lên làm chủ quê hương, đất nước mình vẫn vang vọng trong trí nhớ. Cảm hứng này đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca cách mạng
“Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta”.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh những con đường hành quân đi tới ngày mai tươi sáng. Nhưng những con đường ấy cũng chính là biểu tượng cho con đường cách mạng trong cả quá trình trưởng thành. Nếu ở hai câu đầu người cán bộ nhớ về hình ảnh đoàn quân Việt Bắc ra trận qua từ láy rầm rập thì ở hai câu thơ sau ông miêu tả trọn vẹn sức mạnh không lồ của đoàn quân qua từ lấy tượng hình điệp điệp trùng trùng.
Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Đó là một cách sử dụng từ độc đáo của Tố Hữu. Khi ông lấy từ gốc là trùng điệp sau đó tách từ và lấy lại, Đã miêu tả đoàn quân đông đảo có thể chạy sài Vinh dọc khắp núi rừng vừa mạnh mẽ hào hùng vừa có thể đập tan mọi kẻ thù xâm lược. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh thật đẹp. Đó là hình ảnh Ánh Sao đầu súng có thể hiểu theo hai cách. Có thể là ý nghĩa tả thực, những người lính hành quân trong đêm súng vác trên vai Ngôi sao có lúc như treo trên đầu Ngọn súng, Ngôi sao trở thành người bạn đồng hành của những người chiến sĩ. Hình ảnh thơ ấy có nét tương đồng với ảnh thơ trong bài thơ đồng chí của chính hữu:
“Đầu súng trăng treo”
Hay đó là nét tương đồng trong thơ của Nguyễn Đình Thi:
“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây”
Bên cạnh đó hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng vô cùng đặc sắc. Ánh sao là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng lý tưởng cao đẹp của cuộc đời những người chiến sĩ. Đầu súng là tinh thần chiến đấu là sự oai nghiêm dũng cảm. Cả câu thơ có thể hiểu, đó là lý tưởng cách mạng đã soi đường chỉ lối cho những người lính tiếp tục chiến đấu bằng ý chí và sự bất khuất kiên cường.
Tất cả hình ảnh thơ được tái hiện vừa thực vừa lãng mạn. Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ “dân công” lên đầu câu. Từ đó nhấn mạnh lực lượng cùng tham gia kháng chiến bao gồm cả các dân công. Dường như đó là cuộc kháng chiến của cả toàn dân của cả dân tộc chứ không riêng gì những người chiến sĩ đầu đội trời chân đạp đất. Tố hữu thật tinh tế và độc đáo khi đặt “dân công” ở đầu câu cuối câu là “từng đoàn”. Với cấu trúc ấy đã gợi ra sự trùng điệp vô tận của những đoàn dân công, họ ngày đêm cần mẫn với công việc chuyển lương thực, phục vụ chiến trường.
Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn đuốc cháy sáng rực trên tay. Tất cả đều mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh hoành tráng bay bổng lãng mạn. Nhưng đặc sắc hơn khi nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật phóng đại bước chân nát đá. Từ đó để miêu tả được sự đông đảo của những lực lượng tham gia kháng chiến.
Dường như mọi thứ đã được thần thoại hóa kể cả sức mạnh của quân đội ta: những con người đẹp bằng chông gai đi tới. Để có thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược họ quyết hi sinh bản thân mình vì dân tộc. Khép lại hai câu thơ trên hình ảnh thơ đã tái hiện được khí thế hào hùng của Việt Bắc trong chiến đấu.
Mặc dù điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, nhưng trong họ vẫn luôn giữ niềm lạc quan tin tưởng vững chắc vào ngày mai chiến thắng của dân tộc ta:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong đêm tuổi nên cần đốt đuốc, “Nghìn đêm” được tái hiện qua nghệ thuật ước lệ. Đó là khoảng thời gian dài không có điểm dừng. Nhưng hơn thế nữa, qua từ láy “thăm thẳm” đã gợi tả được màn sương dày đặc bao phủ Việt Bắc. Đó là thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội, gọi lên sự mù mịt không hướng đi. Đặc sắc hơn hình ảnh đó còn ẩn dụ cho quãng thời gian đen tối khi dân tộc, chìm trong đêm trường nô lệ. Nhân dân cả nước phải chịu sự đau khổ mất mát cả về tinh thần lẫn vật chất trong những năm tháng chiến tranh.
Xua đi đêm tối, gạt đi màn sương dày động từ “bật sáng”. xuất hiện như làm bừng sáng cả câu thơ kết hợp với nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên”. Hai hình đó đã nhấn mạnh khoảnh khắc chói lòa khi kháng chiến chuyển sang một thời kỳ mới: thời kỳ của chiến thắng vẻ vang đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng của cán bộ kháng chiến của nhân dân Việt Bắc. Tố Hữu đã đã sử dụng nghệ thuật đối lập “thăm thăm sương dày” và “bật sáng như ngày mai lên để diễn tả sự tự hào, niềm tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng. Tất cả những hình ảnh ấy khép lại làm hiện lên trước mắt người đọc một Việt Bắc hào hùng anh dũng, một quân đội nhân dân lớn mạnh có thể chiến đấu và chiến | thắng mọi kẻ thù xâm lược. Và đó cũng là một thời kỳ gian khổ hiểm nguy nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc… Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại những niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng dồn dập liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân ta:
Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng.
Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả nước.Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc; đồng thời đoạn thơ còn thể hiện niềm lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến thắng vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Đoạn thơ như một đoạn sử thi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta, khắp nơi hận hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui dưới ánh nắng và lá cờ đỏ sao vàng:
Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hàng. Năng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Điều quân chiến dịch Thu – Đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đề, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu… Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy, ai quên Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng Hòa. Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
Trung ương đảng và chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của đảng và nhà nước. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca công lao vĩ đại của Bác hồ kính yêu lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Tây Bắc thân thương, dù mai này đã trở về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ cho mình một góc trong tim dành cho Việt Bắc. Và một lần nữa tác giả lại nhắc đến các địa danh địa điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào như gợi nhắc chúng ta về một thời lịch sử đã qua nhưng vẫn hiện hữu ở đó. Và khổ thơ cuối gắn liền với ảnh của Bác hồ và cũng là cội nguồn cuộc cách mạng, là điểm tựa niềm tin tinh thần của nhân dân Việt Nam. Từ đó thể hiện tình cảm tri ân của nhà thơ dành cho Việt Bắc. Có lẽ bởi Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là đầu não kháng chiến, mà một phần đời còn lại các cán bộ kháng chiến không thể nào quên.
Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc. Đó đều là những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm hồn của nhà thơ và cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ điệp cấu trúc, nghệ thuật liệt kê, ….Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khó tả ,sự khâm phục tinh thần bất khuất của một thời lịch sử hào hùng đã qua. Quả thật không sai khi nói rằng “thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu”.
Nghe bài văn phân tích Việt Bắc hay nhất
5 bài văn phân tích Việt Bắc mẫu hay nhất
Dưới đây là tuyển chọn 5 bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc được Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn lại để giúp các bạn cùng tham khảo:
Bài văn tham khảo số 1
Việt Bắc là một bài thư gồm hai phần. Trong đó, đoạn trích “Việt bắc” của nhà thơ Tố Hữu thuộc phần 1 tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích được coi là đỉnh cao thơ Tố Hữu và cũng là tác phẩm xuất sắc văn học Việt nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mở đầu đoạn trích là lời ướm hỏi “Mình về có nhớ…nhìn sông nhớ nguồn”. Lời ướm hỏi người ra đi có nhớ về chiến khu Việt Bắc, nhớ về cuộc kháng chiến trong suốt 15 năm, nhớ thiên nhiên Việt Bắc. Bên cạnh đó, đoạn thơ cũng là nỗi lo lắng,thắc thỏm của người ở lại sợ người ra đi về thủ đô họ sẽ quên thiên nhiên núi rừng hoang vu và cả những người ở lại.
“Mình về thành thị… giữa rừng”.
Nhà thơ sử dụng rất nhiều tính từ giàu giá trị biểu cảm mang âm hưởng ngọt ngào diễn tả tình cảm gắn bó sâu nặng. Phải chăng, mình ấy ta ấy là một phần đời. Tố Hữu để người ở lại nói trước thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Tố Hữu cùng trái tim tinh tế của một người chiến sĩ.
Đồng thời, để người ở lại nói trước tác giả tạo cơ hội cho người ở lại được bày tỏ tình cảm và giúp người ra đi thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên. Và đây cũng là cách nhắc nhở kín đáo đối với cách mạng sắp về xuôi cũng như cả dân tộc phải hướng về cội nguồn, phải nhớ tới truyền thống ân nghĩa và đạo lý ngàn xưa của cả dân tộc.
Bốn câu tiếp theo là lời của người ra đi. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật đăng đối hai vế trong một câu thơ diễn tả trạng thái cảm xúc lưu luyến, xốn xang. Người ra đi cũng cảm thấy trong lòng có gì đó chơi vơi, hụt hẫng để rồi chân bước đi mà lòng muốn ở lại. Tác giả sử dụng tài tình biện pháp tu từ hoán dụ diễn tả chân thành, cảm động tình cảm của người ra đi dành cho người ở lại. Màu áo chàm vốn giản dị, đơn sơ mộc mạc nhưng đã in đậm trong kí ức của Tố Hữu.
Tám câu thơ đầu cả người ra đi và người ở lại đều hướng tới khẳng định nghĩa tình son sắc thủy chung, khẳng định sự bền chặt tình đồng chí. Tám câu đầu, diễn tả khung cảnh chia tay giữa núi rừng Việt Bắc của người dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng sắp về xuôi. Một cuộc chia tay lịch sử nhưng thiêng liêng và đầy cảm động.
Mười hai câu thơ tiếp theo là những cặp câu lục bát liên hoàn. Sau mỗi câu lục xoáy vào cái tình của người ra đi là những câu bát gợi ra những kỉ niệm gắn bó chặt chẽ của người cán bộ cách mạng với Việt Bắc. Dường như mỗi câu thơ là một dòng nhật kí của chính người trong cuộc.
Những câu thơ miêu tả thiên nhiên Việt Bắc rất bình dị nhưng cũng rất đỗi thơ mộng mang dấu ấn vùng miền, chứa linh hồn, hơi thở của Việt Bắc. Mười tám câu thơ miêu tả thiên nhiên là những dòng cảm xúc chảy trôi miên man. “Ta về mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”. Đoạn thơ này là bức tranh tứ bình sinh động có màu sắc, đường nét, âm thanh, ánh sáng thể hiện tài năng của tác giả trong việc tả cảnh.
Ông sử dụng sáng tạo nghệ thuật vẽ tranh tứ bình – một đặc sản của hội họa cổ điển phương Đông. Bức tranh ấy hiện lên với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của núi rừng Việt Bắc. Ông không miêu tả chi tiết, cụ thể mà ông chỉ điểm xuyết một vài hình ảnh nhưng là những hình ảnh kết đọng nhiều nhất sức sống và linh hồn của cảnh vật.
Và trên nền bức tranh thiên nhiên ấy là hình ảnh của con người luôn trong trạng thái lao động. Ở họ hội tụ đầy đủ phẩm chất cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Đồng thời họ còn là những con người sống thủy chung, nghĩa tình, nhân hậu và vị tha.
Hai mươi hai câu thơ tiếp “nhớ khi giặc đến giặc lùng… Nhớ sang Nhị Hà” là hình ảnh thiên nhiên Việt bắc mang sức mạnh của con người. Chính sự hòa quyện, gắn bó giữa con người với thiên nhiên tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Thiên nhiên Việt Bắc cũng trở thành những chiến sĩ cùng với con người tạo nên hình ảnh một đất nước đứng lên.
Sử dụng biện pháp liệt kê giúp tác giả hồi tưởng một cách chân thực về các địa danh, tên đất, tên bản trên bản đồ địa lý vùng miền. Điều đó trở thành một nhân chứng lịch sử và cũng lưu lại đậm nhất dấu ấn lịch sử kháng chiến chống Pháp.
Khép lại đoạn trích đó là những lời ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò quan trọng thiêng liêng Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến. Việt Bắc chính là cội nguồn, là chân lý nơi nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh. Và Việt Bắc cũng là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.
Bài văn tham khảo số 2
“Việt Bắc” là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ “Việt Bắc” là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.
Bài thơ “Việt Bắc” mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc. Mở đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người về đã gợi ra một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết tha:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân “đậm đà lòng son” suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiến:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi của người ở lại hòa theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến về xuôi: “Mình về có nhớ… Mình đi có nhớ…”. Mình đi có nhớ những tháng ngày “nhóm lửa” gian khổ: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. “Mình về có nhớ chiến khu” thời đánh Pháp đuổi Nhật “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: “Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn – Băm xương thịt mày tan mới hả” (Dọn về làng – Nông Quốc Chấn). Mình đi…, mình về… có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”. Nhớ Việt Bắc là “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Xa dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,…
Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui… trong những tháng ngày “đắng cay ngọt bùi” ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nước thêm ấm áp.
Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Điệp ngữ “nhớ sao” diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối… của khúc nhạc rừng chiến khu. “Những hoa cùng người” của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy “nắng ánh” trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân “nở trắng rừng” và người thợ thủ công khéo léo đan nón “chuốt từng sợi giang”. Rừng phách mùa hè “đổ vàng” trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc “một mình” đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.
Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát – tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ “Việt Bắc”, ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.
Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: “Núi giăng thành lũy sắt dày”. Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”. Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:
Mênh mông bốn mặt sương mù,
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang – cái nôi của cách mạng “dựng nên Cộng hòa”. “Ai về ai có nhớ không?” – Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: “nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”. Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi…, nay “đã hóa tâm hồn” ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.
Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm “rầm rập” hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải “Bước chân nát đá” theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh “đèn pha bật sáng” của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:
Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
“Ai về có nhớ không” – Ta về…, ta nhớ nhiều và nhớ lắm!” Nhớ Việt Bắc là nhớ “thủ đô gió ngàn” của cuộc kháng chiến, là nhớ “Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang”, là nhớ “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”, là nhớ “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”… Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: “Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền”.
Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạt:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Lời đối đáp tâm tình của mình, ta được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ “Việt Bắc” càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là “cây nhà lá vườn”, là hương vị của núi rừng:
Mình về ta gửi về quê,
Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai.
Món quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình – ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son: “Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui”.
“Việt Bắc” là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta:
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Hai chữ “ngày mai” được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chung:
Ngày mai về lại thôn hương,
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê,
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…
Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ. Có “Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng”. Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… là đặc sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phần làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp, đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa “Ai lên mình gửi cho anh với nàng”:
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.
Những món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu, làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹp:
Nước trôi lòng suối chẳng trôi,
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn…
Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. ông Cụ đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới… nay Bác về xuôi cùng đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc “không nguôi nhớ Người”, ngẩn ngơ “trông theo bóng Người”. Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũi:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.
Nét vẽ nào cũng thần tình. Có núi rừng, có đèo cao, có suối reo… làm nền cho bức họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối reo, khi bước trên đèo cao… Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhân được nhân hóa: “Người đi, rừng núi trông theo bóng Người” làm cho tình thương nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Bài thơ “Việt Bắc” được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệt:
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.
“Việt Bắc” là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày “kháng Nhật thuở còn Việt Minh” đến ngày chiến thắng giòn giã: “Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về”. Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này.
“Việt Bắc” là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta.
“Thơ hay phải có dư vị văn chương” như có người đã nói. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy “dư vị” của nó.
Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay (2008), Việt Bắc chưa có cảnh tượng “Phố phường như nấm, như măng giữa trời”, nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là “dư vị văn chương” của bài thơ “Việt Bắc”.
Bài văn tham khảo số 3
Tố Hữu là nhà thơ hăng hái dấn thân vào sự nghiệp giải phóng đất nước bằng trái tim và lòng yêu nước sôi sục. Ông là lá cờ tiên phong cho thơ ca cách mạng với nhiều tác phẩm vô cùng giá trị. Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu xuất sắc của ông.
Việt Bắc được sáng tác vào năm 1954 kể lại một chặng đường khó khăn của dân tộc để đi đến thắng lợi với những câu thơ hào hùng, đầy lòng tự hào của tác giả.
“Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Bài thơ bắt đầu với tự tình của người ở lại. Tác giả đã tạo nên khung cảnh lưu luyến giữa cuộc chia tay của người Việt Bắc và người lính. Từ “thiết tha mặn nồng” không chỉ nói về tình cảm lứa đôi mà còn là những sẻ chia nên cái nặng sâu của tình nghĩa. Tác giả chỉ dùng hai hình ảnh đã gợi lên một thời cách mạng, kháng chiến. Người ở nhắc nhắc cho người đi về thời kỳ đầu tiên xây nền móng cách mạng kháng chiến. Dùng hình ảnh miêu tả sông, núi, rừng làm nỗi nhớ trở nên sâu đậm đồng thời gợi về những đặc điểm quen thuộc của quê hương Việt Bắc.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Người ra đi đã hồi đáp lời của người ở lại. Sự tri kỷ khiến họ thấu hiểu nhau cùng hô ứng đồng vọng. Nhà thơ sử dụng những cặp từ láy như bâng khuâng, bồn chồn, tạo nhạc điệu và cho thấy cảm xúc của người ra đi. Bâng khuâng là từ láy thể hiện cảm xúc mơ hồ đan xen buồn vui. Bồn chồn là tâm trạng không nỡ lìa xa.
Áo chàm là hình ảnh đơn sơ, giàu nghĩa tình, không thể nhạt phai như tấm lòng thủy chung của người Việt Bắc. Sự lưu luyến được thể hiện trong nhịp thơ 3/3/2 thể hiện cảnh chia tay đầy tiếc nuối, nhớ nhung. Tám câu thơ đầu đã diễn tả cảm xúc băn khoăn, trăn trở của người đi và người ở lại.
Đoạn thơ tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong nỗi nhớ:
“Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Sắc thái của nỗi nhớ được tác giả thể hiện thật cụ thể. Nhớ người yêu là nỗi nhớ biểu hiện của tình yêu sâu sắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc liên tiếp hiện ra trong nỗi nhớ của người đi: Việt Bắc với tươi đẹp, với ánh nắng ấm áp, với khói sương huyền ảo và bếp lửa nghĩa tình. Những địa danh tác giả từng trải qua đều in đậm trong tiềm thức của người ra đi.
“Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa.”
Tác giả tả về vẻ đẹp của người Việt Bắc trong sinh hoạt đời thường. Đắng cay là những thiếu thốn trong đời sống vật chất, còn ngọt bùi là tình yêu thương giữa cán bộ và đồng bào. Những xúc động chứa đựng trong mấy chữ đắng cay, ngọt bùi. Tác giả đã tả về cuộc sống đói nghèo của người dân. Thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Người chiến sĩ và nhân dân không chỉ đối mặt với kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét. Đó là một tình cảm đáng trân trọng. Người cán bộ cũng bồi hồi nhớ về người mẹ Việt Bắc cơ cực, vất vả địu con lên rẫy. Lớp học bình dân học vụ với những giờ sinh hoạt cũng hiện ra thật ấm áp. Khép lại đoạn thơ là hình ảnh thân thương “tiếng mõ”, gợi tả âm thanh êm dịu, thanh bình của một cuộc sống thật bình dị, giản đơn.
Cảnh thiên nhiên bốn mùa ở Việt Bắc là bức tranh tứ bình đầy màu sắc:
“Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mùa đông trong thơ Tố Hữu ấm áp một cách kỳ lạ làm xua tan cái hiu hắt của đồi núi. Mùa xuân là một rừng hoa mơ tinh khiết, trắng ngần với sức sống tràn trề của núi rừng Việt Bắc và đồng thời gợi cảm giác xốn xang, nhớ nhung trong lòng. Mùa hè là khúc nhạc tình ca của đàn ve và hình ảnh con người giản dị giữa thiên nhiên. Tác giả đón nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan của mình. Người cán bộ sau đó đã nhớ về trăng ở Việt Bắc vào mùa thu. Ánh trăng trong sáng hòa bình đem bao ước vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Giữa sự thay đổi của bốn mùa, hình ảnh người lao động hiện ra thật giản dị, chăm chỉ đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Đoạn tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong chiến đấu:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Từng sự kiện được gợi lên với biết bao đau thương, mất mát nhưng người dân vẫn một lòng đoàn kết thành lập một chiến tuyến chống kẻ thù. Đoạn thơ thể hiện không khí chiến đấu của con người Việt Bắc: núi vươn lên thành lũy sắt, rừng thành phòng tuyến chống quân thù. Điệp từ kết hợp với phép nhân hóa thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người và thiên nhiên. Khí thế xung trận thể hiện bằng từ láy rầm rập, gấp gáp của đoàn quân. Tất cả đoàn quân cùng bước đi mạnh mẽ, từng đợt này nối tiếp đợt kia. Khí thế ấy được thể hiện bằng hình ảnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Và tin vui chiến thắng cuối cùng cũng đến:
Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Nhà thơ chuyển sang nhịp điệu vui tươi, dồn dập, mọi người từ khắp cả nước cùng đón chào chiến thắng, đón chào một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bài thơ lục bát sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo, bút pháp tả cảnh ngụ tình để lại cho người đọc ấn tượng khó phai về cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc. Tố Hữu đã khắc họa thành công những sự kiện, những kỉ niệm thời kháng chiến với những cảm xúc trọn vẹn, đó chính là khúc hát tâm tình và truyền thống, đạo lí cội nguồn của dân tộc.
Bài văn tham khảo số 4
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, miền Bắc nước ta được giải phóng. Lịch sử đất nước bước sang trang mới. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kì mới. Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.
Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm được chia làm hai phần: Phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược với miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kết thúc là lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc.
Việt Bắc ra đời vào thời điểm giao thời của lịch sử đất nước, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, khi trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Giữa lúc ấy, nhiều điều có thể sẽ rất dễ đổi thay. Cuộc sống yên vui dễ làm người ta quên đi những tháng năm kháng chiến gian khổ, dễ quên đi nơi đã đùm bọc chở che cho mình. Vào đúng thời điểm nhạy cảm ấy, bài thơ ra đời như một lời nhắn gửi chân thành về tình nghĩa và sự thủy chung.
Chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp ta với mình của ca dao giữa người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc), bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư. Khúc giao duyên tâm tình kia lại đang chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.
Đoạn trích nằm trong cấu trúc chung của phần mở đầu và phần một của bài thơ – niềm hoài niệm về một Việt Bắc gian khổ và nghĩa tình trong kháng chiến. Bài thơ được triển khai theo hình thức đối đáp giữa người đi và kẻ ở, thứ thơ này gần gũi với ca dao, nó là hình thức của kiểu đối đáp giao duyên truyền thống. Tuy nhiên, trên cái nền truyền thống quen thuộc ấy, bài thơ vẫn truyền tải được một vấn đề tư tưởng lớn lao như đã nói ở trên.
Bài thơ mang dáng dấp hình thức lối đối đáp ta với mình của ca dao. Tuy nhiên, việc sử dụng hai đại từ này trong bài thơ khá linh hoạt. Mình có khi chỉ người cán bộ miền xuôi, ta chỉ nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Nhưng cũng có khi ta lại chỉ người đi, mình chỉ kẻ ở:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Trong trường hợp khác, hình thức biểu đạt kiểu ca dao đó còn linh hoạt hơn:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Có thể nói, việc thay đổi liên tục ý nghĩa biểu đạt của hai từ ta với mình là một sự sáng tạo đầy ấn tượng của nhà thơ. Hai từ này có khi hình thành một cuộc đối đáp thực sự của người đi và kẻ ở, song có khi nó chỉ là sự phân thân tự vấn của người đi để đáp lại nghĩa tình sâu nặng của kẻ ở. Sự giao thoa đó, vốn dĩ đã tạo nên một cảnh tiễn biệt dùng dằng thương nhớ. Sau nữa, nó góp phần làm cho cả một bài thơ dài không bị nhàm chán. Đặc biệt, nó tạo nên độ sâu về tư tưởng cho bài thơ.
Tâm trạng bao trùm phần đầu của bài thơ là nỗi nhớ. Trong đó, đặc biệt những kỉ niệm kháng chiến hiện về tươi rói trong hồi tưởng của nhà thơ. Niềm hồi tưởng được hình thành từ những câu hỏi – đáp. Theo đó, Việt Bắc hiện lên với tất cả những nét đặc trưng, với tất cả những yêu thương, gian nan, tình nghĩa.
Việt Bắc trong trí nhớ của những chiến sĩ cách mạng là những ngày “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. Thời gian, không gian mờ trong sương khói hoài niệm. Thiên nhiên rất đặc trưng cho không gian núi rừng Việt Bắc, nhưng cái gợi nhiều nhớ nhung nhất chính là những ngày gian nan, đắng cay mà tình nghĩa với “miếng cơm chấm muối”, “bát cơm sẻ nửa”, “củ sắn lùi”… Kỉ niệm về Việt Bắc còn có hình ảnh tảo tần của những người mẹ:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Hai chữ “cháy lưng” đủ nói lên bao xót thương cũng như ân nghĩa mà người cán bộ miền xuôi dành cho người mẹ Việt Bắc. Khó khăn gian khổ như vậy, nhưng với cách mạng, với kháng chiến, đồng bào vẫn một lòng son sắt thủy chung. Lời nhắn gửi đã nói lên tất cả:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Có thể coi Việt Bắc là một trong những điển hình của thơ ca cách mạng. Tiếng thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện ở lối kết cấu đậm chất ca dao, ở giọng điệu lục bát điêu luyện, ngọt ngào. Nhờ thế mà chẳng những bài thơ nói được những vấn đề có ý nghĩa lớn lao của thời đại mà nó còn khơi được đúng vào chỗ sâu thẳm nhất trong truyền thống ân nghĩa, thủy chung ngàn đời của nhân dân ta.
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, là một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung.
Bài văn tham khảo số 5
Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên được nghĩa tình gắn bó và thân thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ với đất nước và nhân dân- tất cả là nguồn sức mạnh to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Mở đầu bài thơ với giọng trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta” ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người Cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, đầy lưu luyến, sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật. Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. “Mười lăm năm” là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên. Và đặc biệt nỗi nhớ đã lan tỏa khắp khu rừng, phải yêu phải gắn bó phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ ” thiết tha” đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình và ở đó ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đượm nghĩa tình. Hình ảnh “áo chàm” có phần cổ điển thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc đang đưa tiễn người chiến sĩ Cách mạng. Nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi để cảm xúc ấy len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai:
“Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối” là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung ngọt ngào, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ “trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, đã thể hiện nỗi buồn sâu đậm khi người lính về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui sang vắng vẻ, đìu hiu:
“Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” khẳng định một chân lí rằng càng khó khăn thì tình nghĩa quân dân càng đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ đã khẳng định sự gắn bó. Những địa danh quen thuộc với người ra đi và người ở lại, gợi nhắc những kỷ niệm xưa cũ, tình cảm của những người chiến sĩ và cách mạng với người dân Tây Bắc:
“Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Lời đối đáp “mình- ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình. Sử dụng biện pháp so sánh để thể hiện nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy. Câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về sự mến thương ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta cảm nhận như nhà thơ đang lập giở từng trang ký ức. Tố Hữ đã liệt kê những địa danh và đến với hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm:
“Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi… Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô. Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Cụm từ “Ta đi, ta nhớ những ngày” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho người ở lại. Cụm từ “mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau” thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó, chính sức mạnh ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ- đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Đoạn thơ rất giàu nhịp điệu, là khúc ca ca ngợi cuộc sống, vẫn chan chứa trong lòng người Cách mạng và núi rừng Việt Bắc. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa:
“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta” Chất chứa bao nhiêu nỗi niềm. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn, tạo nên bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua tan cái lạnh ở mảnh đất Việt Bắc. Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp và kì vĩ. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng” vô cùng thơ mộng, hình ảnh con người trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”. Động từ “chuốt” thể hiện công việc cần cù khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu của cách mạng tháng Tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả được tượng trưng cho một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ cuối vừa khép lại bức tranh về cảnh và con người Việt Bắc, đồng thời khép lại khúc tình ca hào hứng về kháng chiến.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô “ta-mình”, bài thơ chứa niềm lạc quan vui sống và tin tưởng vào con người Việt Bắc. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc.
Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tim mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng. Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
Chính thiên nhiên cũng che chở cho những con người Việt Nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi bom đạn quân thù. Và khi ấy cả bộ đội và dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Và thế rồi không ai bảo ai, kẻ ở người đi đều nhớ tới những ngày ráo diết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến chống lại chiến dịch của thực dân. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:
“Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân. Tất cả đồng lòng như một, “ánh sao” để chỉ những người chiến sĩ còn “mũ nan” là những dân quân Việt Bắc. Bằng nghệ thuật phóng đại sức mạnh của dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân phải sống trong cảnh khó khăn, vất vả. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Họ sống trong khốn khổ để bật phá tự đứng dậy đấu tranh vì niềm tin vào tự do, hạnh phúc. Từ Hòa Bình, Tây Bắc và Điện Biên cũng chung vui với chiến thắng ấy.
Để kết cho niềm vui lẫn nhớ nhung lưu luyến không muốn rời, nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt ở hang động núi rừng:
“Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Điều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy, ai quên Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
Bằng thể thơ lục bát, bài thơ thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc và đó cũng là tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Việt Bắc khẳng định tình nghĩa thủy chung, tình cảm uống nước nhớ nguồn của cán bộ với thủ đô kháng chiến, quê hương và người dân Việt Nam.
Trên đây là toàn bộ những hướng dẫn chi tiết cùng những bài văn đặc sắc phân tích Việt Bắc.
Các em có thể tải thêm 15 bài văn phân tích Việt Bắc với định dạng Pdf bên dưới để tham khảo thêm. Chúc các em hoàn thành tốt và đạt điểm cao với bài làm văn của mình!