Đề bài: Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng
Bài văn mẫu Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
I. Dàn ý Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu (Chuẩn)
1. Mở bài
– Giới thiệu chung về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng.- Giới thiệu 13 câu đầu bài thơ.
2. Thân bài
a. Phân tích 4 câu đầu đoạn thơ– Viết theo thể 5 chữ, ngắn gọn, giàu giá trị biểu đạt.- Điệp ngữ “Tôi muốn” đầu câu khẳng định cái tôi đầy chủ động của chủ thể trữ tình.- Biện pháp điệp cấu trúc càng nhấn mạnh được khát vọng mạnh mẽ của cái tôi cá nhân…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng
1. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 1 (Chuẩn):
4. Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 4 (Chuẩn):
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Đây cũng là ba chủ đề chính trong sự nghiệp thơ ca của ông trước cách mạng tháng Tám. Với mười ba câu thơ đầu tiên trong bài thơ “Vội vàng”, 8, thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống đến mãnh liệt.
Có thể nói trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo, và đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi”.
Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân. Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương. Khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người. Điều này vừa hợp lí bởi nhà thơ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh) nhưng cũng vừa vô lí và không thể thực hiện được bởi con người làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là mỏng manh, ngắn ngủi, không tồn tại được mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được những ước muốn đó khi có phép nhiệm màu. Đồng thời khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông. Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.
Bài văn Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu tuyển chọn
Ý thơ như trào dâng theo cảm xúc ở thể ngũ ngôn đã lột tả được ước muốn chân thành mà táo tạo của “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Đặc biệt, sự xuất hiện của chủ thể trữ tình, của cái tôi cá nhân đã thoát ra khỏi những hệ thống các quy ước, ràng buộc của văn học trung đại. Nhân vật trữ tình xưng “tôi” một cách đầy tự tin và quyết đoán. Cái tôi cá nhân ấy không ẩn sau cái “ta” chung của cộng đồng, dân tộc mà nó đứng riêng lẻ đầy khí chất bởi với Xuân Diệu, cái tôi là lẽ sống:
“Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhấtKhông có chi bạn bè nổi cùng ta”.
(Hy Mã Lạp Sơn )
Sự lặp lại về cấu trúc và hình thức ở các câu thơ 1 – 3, câu thơ 2 – 4 cùng tiết tấu câu thơ nhanh, dồn dập đã thêm một lần nữa tô đậm ước muốn đoạt quyền tạo hóa của Xuân Diệu.
Nếu các nhà thơ trung đại gửi lòng mình vào chốn bồng lai tiên cảnh thì Xuân Diệu lại phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất có ngay trong tầm tay với của con người:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửaTháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Những dòng thơ tiếp theo là sự lí giải nguyên nhân vì sao nhà thơ lại muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ về mùa xuân đã nhận ra vẻ đẹp của cuộc đời, thiên nhiên với những thực đơn phong phú. Mùa xuân của ong bướm, cỏ cây, hoa lá, mùa xuân của tạo vật tràn trề nhựa sống. Mùa xuân được phát hiện bằng vẻ đẹp của tháng giêng với những gì tinh túy nhất. Có thể nói đó là bức tranh tuyệt đẹp, là khu vườn tình ái đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới có thể nhìn thấy được “tuần tháng mật” của ong bướm, thấy được sắc màu xanh non của cành tơ với những chiếc lá đang “phơ phất”. Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi nguyên ấy như được trưng bày ra trước mắt nhà thơ và bạn đọc qua điệp từ “này đây”. Chỉ có người thi sĩ ấy mới thấy được những bông hoa của đồng nội và nghe được khúc tình si của chim yến, chim anh. Và cũng chỉ có ông mới cảm nhận được: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Mùa xuân đẹp và quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Tác giả sử dụng từ “ngon” để thể hiện một khát khao, một cảm nhận riêng đến lạ lùng mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nà của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có đôi, gắn bó, quấn quýt với nhau một cách thân thiết. Lứa đôi gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, say đắm, hương gắn kết với hoa để khoe sắc trên đồng nội “xanh rì”. Những cánh yến anh trên bầu trời đang chao liệng để gửi gắm lời yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về.
Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để nét vẽ của mình in sâu trong tâm trí người thưởng thức. Thiên đường, bữa tiệc của thiên nhiên có ngay trong cuộc sống này, có ngay trong tầm tay với của con người. Đoạn thơ như một bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lai và đưa ai ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Biện pháp liệt kê khiến những vẻ đẹp của mùa xuân được phơi bày một cách sinh động và chân thực.
Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non đến thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời đến tham dự. Nhà thơ đã “say đắm với tình yêu, hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả các giác quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”. Đôi mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, một sức trẻ khỏe khoắn, một mùa xuân phơi phới làm mê đắm lòng người. Nhà thơ có ước muốn níu giữ tất cả vị “ngon” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang trong thời kì hương sắc nhất.
Xuân Diệu đang chìm đắm trong thế giới diệu kì của nhân gian, vũ trụ thì chợt bừng tỉnh:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả đặt mình trong hai trạng thái nửa “sung sướng” mãn nguyện nửa “vội vàng”, xót xa. Dấu chấm ngăn cách giữa dòng thơ tạo nên hai câu đặc biệt. Thi sĩ nhận ra vẻ đẹp vô giá của cuộc đời nhưng ngay lập tức cũng biết rằng thời gian là không chờ đợi. Dấu chấm làm mạch cảm xúc bị đứt đoạn, Xuân Diệu đang ngây ngất trong thiên đường mùa xuân thì chợt nhận ra cuộc đời con người rất ngắn ngủi và mỏng manh. Đang ở trong khu vườn trần thế đầy tình tứ mà Xuân Diệu đã lo sợ cuống cuồng những vẻ đẹp sẽ tan biến, mất đi trong hư vô mà không đọng lại chút dư âm. Nhà thơ muốn chạy đua với thời gian, muốn hòa tan mình vào thiên nhiên để trường tồn cùng thời gian.
Mùa xuân đã trở thành người bạn tri âm của Xuân Diệu, luôn được Xuân Diệu chào đón bằng tình yêu nồng nhiệt trong bất cứ hoàn cảnh nào:
“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng héGiữa mùa hè khi trời biếc sau mưaGiữa mùa thu khi gió sáng bay vừaLùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng”.
(Xuân không mùa)
Đây là mùa để ấp ủ, gieo mầm gặp gỡ, giao hòa của vạn vật và là nơi nảy nở tình yêu của mỗi cá thể. Ông quan niệm rằng: “Tình không tuổi và xuân không ngày tháng” (Xuân không mùa) nhưng cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, hoa nở rồi cũng tàn theo quy luật của tạo hóa. Dường như biết trước được quy luật khắc nghiệt ấy nên Xuân Diệu “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Nhà thơ đã nhận ra được bước đi vô tình mà tàn nhẫn của thời gian nên ông không chờ một điều gì đó qua đi mới cảm thấy hối tiếc, ông không đợi mùa xuân đi hết chặng đường của mình rồi mới nhớ thương, tiếc nuối.
Ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân qua mười ba câu đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã khẳng định rằng không nơi nào đẹp hơn khu vườn trần thế ở mặt đất. Những vần thơ của ông là “nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Được sống là niềm hạnh phúc, khát khao lớn nhất của mỗi chúng ta, vì vậy, chúng ta cần biết trân trọng sự sống và có thái độ sống tích cực.
5. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, mẫu số 5 (Chuẩn)
Xuân Diệu là một nghệ sĩ đa tài – viết văn, làm thơ, phê bình, nghiên cứu văn học,… nhưng để lại nhiều thành tựu nổi bật hơn cả vẫn là thơ ca. Xuân Diệu là một trong số những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới với những vần thơ rạo rực niềm yêu đời, thiết tha với cuộc sống, luôn thể hiện một khát vọng “vô biên và tuyệt đích” và một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Và có lẽ, nét đặc sắc ấy trong thơ Xuân Diệu được thể hiện rõ nét qua mười ba câu đầu của bài thơ “Vội vàng”.
Mở đầu đoạn thơ với bốn câu thơ được viết bằng thể thơ năm chữ tác giả Xuân Diệu đã bộc lộ khát khao cháy bỏng muốn lưu giữ những vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên.
Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi
Với nghệ thuật điệp ngữ “tôi muốn” được lặp lại hai lần cùng với thể thơ năm chữ, nhịp thơ nhanh, dứt khoát, bốn câu thơ đã thể hiện ước ao, khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu. Ước muốn của thi sĩ đấy chính là “tắt nắng”, là “buộc gió” để giữ lại màu, lại hương cho cuộc đời. Ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” ấy của nhà thơ tưởng chừng như vô lí bởi nắng, gió là những cái thuộc về tự nhiên làm sao con người có thể níu giữ nó lại, thế nhưng, với Xuân Diệu thì hoàn toàn có thể, bởi với ông, nắng và gió chính là biểu tượng cho những vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống. Ước muốn ấy của nhà thơ xét đến cùng là ước muốn được lưu giữ hương sắc, lưu giữ mãi những vẻ đẹp của thiên nhiên của cuộc sống, để chúng không bị tàn phai theo bước chuyển của thời gian.
Hướng dẫn lập dàn ý và Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Nếu bốn câu thơ đầu, tác giả bày tỏ khát khao mãnh liệt, cháy bỏng của mình thì trong bảy câu thơ tiếp theo của đoạn thơ, tác giả vẽ lên trước mắt bạn đọc “bức tranh thiên đường trên mặt đất”.
Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi
Điệp ngữ “này đây” được lặp lại năm lần như một lời mời gọi, dường như tất cả mọi thứ cứ đang bày, đang phô diễn, đang mời mọc. Và để rồi, đằng sau điệp từ ấy, từng hình ảnh, từng gam màu của bức tranh thiên nhiên, của “bữa tiệc trần gian” của thế gọi nhau hiện ra. Bức tranh ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vui tươi, tràn đầy sức sống tươi mới, tình tứ với biết bao niềm hân hoan, hạnh phúc, đó là “ong bướm” đang “tuần tháng mật”, là “đồng nội xanh rì”, “là cành tơ phơ phất”, là “yến anh” với khúc nhạc tình si. Tất cả những hình ảnh ấy quyện hòa vào nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, tất cả như căng tràn sinh lực và sự sống. Đồng thời, đó còn là một bức tranh mùa xuân với sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh, màu sắc và âm thanh, dường như mỗi hình ảnh, mỗi sự vật trong bức tranh ấy đều hiện lên sự tình tứ, quyến luyến để bức tranh mùa xuân như một “vườn tình”, vườn yêu, đầy ngọt ngào và hạnh phúc. Đặc biệt, trong đoạn thơ, tác giả không chỉ nhìn thiên nhiên bằng mắt và lắng nghe âm thanh bằng tai, bức tranh thiên nhiên ấy còn được tác giả cảm nhận bằng cả vị giác qua hình ảnh so sánh độc đáo.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Xuân Diệu đã nhân hóa thiên nhiên và xem thiên nhiên như một người tình để ông ái ân, tình tứ. Hình ảnh so sánh táo bạo, độc đáo này đã thêm một lần nữa cho chúng ta thấy tình yêu, sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên, với cuộc sống. Như vây, chỉ với bảy câu thơ nhưng Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp ngay giữa chốn trần gian và với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa xôi mà nó có ngay trên mặt đất này. Và đây cũng chính là quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Đồng thời, qua đây cũng giúp lí giải vì sao trong bốn câu thơ mở đầu bài thơ Xuân Diệu lại có những ước muốn, khát khao cháy bỏng và mãnh liệt đến như vậy.
Trước vẻ đẹp của “thiên đường trên mặt đất”, dường như nhà thơ không thể giấu nổi nỗi lòng mình mà phải thốt lên rằng.
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Câu thơ như bị ngắt thành hai vế đứt quãng, cái tôi nhà thơ sung sướng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống nhưng niềm sung sướng ấy thật chóng vánh để lại sau đó là một nốt ngừng với cảm giác “vội vàng một nửa’. Vội vàng, lo lắng bởi có lẽ hơn ai hết, Xuân Diệu cảm nhận thấy sự chảy trôi của thời gian, sự mỏng manh, ngắn ngủi của kiếp người nên ông phải sống vội vàng để tận hưởng những vẻ đẹp nơi đây.
Tóm lại, mười ba câu đầu bài thơ “Vội vàng’ đã đưa đến cho chúng ta quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa xôi mà nó hiện hữu ngay trên mặt đất, ngay giữa chốn trần gian.
-HẾT-
Vội vàng là bài thơ quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 11, để củng cố kiến thức bài học, bên cạnh bài Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng, các em có thể tham khảo thêm: Vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống trong bài thơ Vội vàng, Triết lí nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Phân tích khổ thơ đầu trong bài Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định, Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-13-cau-dau-bai-tho-voi-vang-42207n.aspx