Phù Cát là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định, nằm trên tọa độ 13054’ – 14032’ vĩ Bắc và 108055’ – 109005’ kinh Đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Phù Mỹ và Hoài Ân. Phía Nam giáp thị xã An Nhơn, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Vĩnh Thạnh và Tây Sơn. Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 35 km và chếch về phía Đông Nam giáp huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn.
Theo thống kê, huyện Phù Cát có diện tích là 680,49 Km2, dân số trung bình 190.000 người, trong đó nữ chiếm 97.000 người; mật độ dân số 279 người/Km2.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có các dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó chủ yếu là người Kinh và một số ít là người Bana gồm 26 hộ, 91 nhân khẩu nằm rải rác tại các xã Cát Sơn, Cát Lâm.
Về tôn giáo, có các đạo Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Cao Đài,… với nhiều cơ sở thờ tự lâu đời và nổi tiếng trên địa bàn huyện.
Phù Cát có 18 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 17 xã là Cát Sơn, Cát Lâm, Cát Hiệp, Cát Hanh, Cát Tài, Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải, Cát Tiến, Cát Chánh, Cát Thắng, Cát Hưng, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Trinh, Cát Tân và 01 thị trấn là Thị trấn Ngô Mây. Dưới xã – thị trấn được phân chia thành 117 thôn và khu phố.
Địa hình Phù Cát đa dạng, gồm có đồng bằng chuyên trồng lúa nước, tập trung ở các xã ven sông Côn và sông La Tinh; vùng núi thấp – gò đồi trồng các loại cây trồng cạn, cây lâm nghiệp; ngoài ra còn có các vùng đầm ven biển thuộc Cát Minh, Cát Khánh, Cát Thành.
Về núi non, có các dãy núi Trường Sơn đâm xuống nửa phần phía Tây huyện và dãy núi Bà vươn ra sát biển.
Về sông ngòi, đáng kể nhất là sông Đại An (thuộc hệ sông Côn) nối từ Cát Tường-Cát Nhơn đến Cát Chánh rồi đổ ra Đầm Thị Nại. Sông La Tinh bắt nguồn từ Hội Sơn, đổ ra đầm Đề Gi, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Phù Cát với huyện Phù Mỹ.
Về đầm nước lợ có đầm Đạm Thủy với diện tích 1600 ha, tại đây có hệ sinh thái đầm phá ven biển tiêu biểu. Đầm Đạm Thủy nối thông biển qua cửa Đề Gi, tạo nên cảng biển có giá trị.
Danh thắng của Phù Cát rất đa dạng, trong đó phải kể đến các suối nước khoáng Hội Vân (xã Cát Hiệp), suối khoáng Chánh Thắng (xã Cát Thành). Dãy núi Bà là danh lam thắng cảnh nằm ở phía Đông Nam của huyện với nhiều hang động ẩn trong lòng núi, có Hòn Vọng phu, Hòn Chuông. Rải dọc theo dãy núi Bà có nhiều ngôi chùa cổ như chùa Tịnh Lâm, chùa Linh Phong, Tân phủ Càn Dương,…
Các bãi biển chạy dài từ xã Cát Chánh đến Cát Khánh, với các bãi Trung Lương, Vĩnh Hội, Tân Thắng, Chánh Oai, Đề Gi,…
Ngoài ra, Phù Cát cũng là nơi hình thành và phát triển nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như: làng dệt chiếu thôn Phú Hậu xã Cát Tiến và thôn Chánh Hậu – xã Cát Chánh, làng bánh tráng và nón ngựa thôn Phú Gia – xã Cát Tường, làng bún bánh thôn An Phong – TT Ngô Mây, làng nhang thôn Xuân Quang – xã Cát Tường, làng đan lát thôn Phú Hiệp – xã Cát Tài và thôn Trung Chánh – xã Cát Minh. Sản phẩm của làng nghề được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu có sẵn trong khu vực nhưng lại có những nét đặc trưng riêng mang đậm bản sắc vùng miền nơi đây, với các sản phẩm nổi tiếng một thời như: nón ngựa Phú Gia, bánh tráng nước dừa, võng, chiếu, bún hủ tiếu, …
Do đặc điểm của địa hình mà nơi đây cũng tập trung nhiều nguồn khoáng sản lớn và phong phú, trong đó phải kể đến: mỏ titan (Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải), các nguồn cát trắng, cao lanh; nước khoáng, đá ong, đá granite, ….
Hệ thống giao thông Phù Cát đa dạng, rải khắp toàn huyện, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.
Về đường bộ, có Quốc lộ 1 đi ngang qua trung tâm huyện; các tuyến đường Tây tỉnh, tuyến ven biển ĐT 639, các tuyến ĐT 633, 634 và 635 nối thông các xã từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, kết nối hệ thống đường liên xã, liên thôn. Tuyến đường sắt với 2 ga chính là ga Phù Cát và Khánh Phước.
Đường hàng hải, với cảng biển neo đậu tàu thuyền Đề Gi, đây chính là nơi giao thương trong và ngoài nước của huyện.
Đường hàng không có sân bay Phù Cát, cách huyện lỵ 6 km, là một trong những sân bay lớn của cả nước với Cảng Hàng không dân dụng phục vụ các lượt khách đến và đi.
Nhìn lại quá khứ thì trước năm 1470, Phù Cát thuộc đất Chăm pa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn mở rộng bờ cõi đến tận đèo Cù Mông, lập phủ Hoài Nhơn lệ vào thừa tuyên Quảng Nam. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Phù Cát thuộc huyện Phù Ly. Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi Hoài Nhơn thành Quy Nhơn. Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, Phù Ly chia thành huyện Phù Mỹ và Phù Cát, lấy sông La Tinh làm ranh giới, tên Phù Cát có từ đó. Huyện lỵ đầu tiên ở Xuân Hội, sau dời về Hòa Hội (1865) rồi vào An Hành (Thị trấn Ngô Mây ngày nay). Cuối thế kỷ XIX, Phù Cát có 4 tổng và 127 làng. Qua nhiều thời kỳ sáp nhập, chia tách, đến năm 1937 toàn huyện có 6 tổng và 114 làng. Khoảng năm 1946 đến tháng 3 năm 1948, bỏ cấp tổng, 2 lần sáp nhập làng xã, còn lại 13 xã, lấy chữ “Cát” làm tên đầu cho các xã mới: Cát Khánh, Cát Minh, Cát Tài, Cát Hanh, Cát Sơn, Cát Hiệp, Cát Trinh, Cát Nhơn, Cát Tường, Cát Thắng, Cát Xương và Hoành Sơn. Trước năm 1975 tiếp tục sáp nhập một số làng cho huyện Phù Mỹ, Tuy Phước, Vĩnh Thạnh. Sau năm 1975 đến nay, một số xã đã tách và thành lập đơn vị cấp xã mới gồm các xã Cát Lâm, Cát Tân, Cát Hưng, Cát Tiến, Cát Hải, Cát Thành và Thị trấn Ngô Mây.
Phù Cát là một huyện đông dân của tỉnh Bình Định. Dân số giữa đời Tự Đức khoảng 39.000 người. Năm 1932 lên đến 81.000 người. Năm 1953 hơn 102.971 người. Năm 1960 có 106.055 người. Năm 1989 tăng lên 154.958 người. Năm 2013 lên đến 190.000 người. Người Phù Cát vừa mang những nét chung của Bình Định và Việt Nam, vừa có các sắc thái đậm đà tính cách địa phương.
Lớp dân cư Việt Nam đầu tiên của Phù Cát, ngoài “tội đồ” bị lưu đày “viễn châu” của nhà Lê và lớp “tù binh” của chúa Nguyễn thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672), phần lớn là lưu dân vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh, tức những lớp người dưới đáy của xã hội phong kiến loạn lạc. Trên đất mới, họ sớm hòa hợp, xen cư với người Chăm và Bana bản địa, để đối phó với thiên tai và khí hậu khắc nghiệt, cùng nhau khai phá, tô điểm và bảo vệ từng thước đất quê hương. Chính những điều kiện lịch sử, kinh tế – xã hội đó tạo cho người Phù Cát có những nét riêng, mà các sử gia nhà Nguyễn trong Đồng Khánh địa chí đã nhận xét: “đôn phác, giản dị, chuyên học, nhiều người thật thà, nhã hậu”.
Đời sống tuy rất chật vật, song Phù Cát là đất hiếu học. Về Nho học, từng sản sinh nhiều nhà khoa bảng tài cao, học rộng, liêm khiết và thân dân. Dương Định Quốc nổi tiếng thần đồng, 23 tuổi thi đỗ khoa Minh Kinh, tri huyện Tuy Viễn thời Tây Sơn. Huỳnh Văn Minh (Phú Hội, Cát Tài) đỗ cử nhân khoa Canh Tỵ (1821), khai khoa cử nhân của Bình Định. Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển (Vĩnh Ân, Cát Hanh), Hội nguyên khao Đinh Mão (1847) lúc mới 20 tuổi, từng là Đốc học tỉnh Bình Định, tác giả cuốn “Đồ bàn thành ký”. Qua các thời kỳ, Phù Cát có nhiều người thành đạt và nổi tiếng trên hầu hết các lĩnh vực.
Về kinh tế: trước đây, phần lớn cư dân chuyên trồng lúa nước, một ít khai thác hải sản gần bờ. Trong vài chục năm nay, kinh tế Phù Cát vẫn tập trung phát triển nông nghiệp là chính: trồng trọt, chăn nuôi; khai thác thủy – hải sản, trồng rừng. Đồng thời chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Đến năm 2013, về cơ cấu kinh tế, ngành nông nghiệp huyện chiếm 34,2%, ngành công nghiệp – dịch vụ chiếm 64,8%. Tổng giá trị sản xuất (giá trị cố định 1994), đạt 2.404 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm.
Cây trồng chính gồm:
+ Lúa: với diện tích gieo trồng cả năm 15.400 ha, năng suất 56,9 tạ/ha, sản lượng 87.800 tấn.
+ Đậu phộng: 3.800 ha.
+ Sắn: 2.600 ha.
Về chăn nuôi: đàn bò có 46.500 con, đàn heo 87.600 con. Diện tích rừng khoanh nuôi, bảo vệ là 9.400 ha, độ che phủ rừng chiếm 34,5% diện tích toàn huyện.
Về khai thác nuôi trồng thủy – hải sản: Tàu thuyền có 1063 chiếc với tổng công suất 95.900 CV, sản lượng khai thác 30.000 tấn; diện tích nuôi trồng thủy sản 617 ha, sản lượng 700 tấn. Diện tích sản xuất muối 83 ha, sản lượng bình quân hàng năm 10.000 tấn.
Về phương tiện vận tải: hiện có 420 chiếc.
Về văn hóa – xã hội: ngành giáo dục có 22 trường mẫu giáo; Tiểu học 31 trường; Trung học cơ sở 18 trường; Trung học phổ thông 6 trường. Tổng số học sinh các cấp học là 46.000 em.
Về y tế: có 01 bệnh viện đa khoa, 01 phòng khám khu vực, 01 bệnh viện điều dưỡng và 18 trạm y tế xã – thị trấn; tổng số giường bệnh 190 giường.
Phù Cát hội tụ nhiều điều kiện để phát triển. Trước hết là phát triển nền sản xuất nông nghiệp đa dạng từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác thủy – hải sản, trồng rừng; phát triển sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp với mặt bằng rộng rãi, nguyên vật liệu phong phú; phát triển về thương mại, du lịch, các loại dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp, hệ thống giao thông thuận tiện; phát triển mạnh về nguồn nhân lực vì nơi đây sản sinh ra nhiều người học hành giỏi giang, thành đạt, nổi tiếng. Thiên thời – địa lợi – nhân hòa, là những yếu tố mà Phù Cát có đủ. Vấn đề còn lại là làm như thế nào để các yếu tố đó tạo nên sự phát triển và thịnh vượng. Muốn vậy, mọi người dân Phù Cát, dù đang sinh sống hay sống xa quê hương cần chung lòng, chung sức kiến tạo cho mảnh đất thân yêu của mình ngày càng giàu đẹp.