a. Tác giả:
- Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở Thăng Long
- Bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ
- Cuộc đời, tình duyên của Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái
- Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”
- Tác phẩm: tương truyền có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm, còn có tập Lưu Hương Kí gồm có 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm
- Nội dung sáng tác: thường viết về người phụ nữ với tiếng nói cảm thương sâu sắc; khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
- Phong cách nghệ thuật: trào phúng mà trữ tình đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng.
b. Tác phẩm
- Xuất xứ: nằm trong chùm thơ “Tự tình” gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương.
- Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật
- Chủ đề: Bài thơ bày tỏ nỗi lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu
a. Hai câu đề
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
- Thời gian: Đêm khuya → thời điểm nửa đêm về sáng, là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình với những suy tư, trăn trở.
- Không gian: tĩnh mịch, vắng lặng, quạnh hiu với âm thanh “văng vẳng” của tiếng “trống canh”
- Từ “dồn”: Nhịp điệu gấp gáp, hối hả → bước đi của thời gian ⇒ Đó cũng chính là tâm trạng rối bời, vừa lo âu vừa buồn bã của con người ý thức được sự chảy trôi của thời gian, đời người
- Từ “trơ”:
- Có nghĩa là phơi ra, bày ra + “cái hồng nhan”; “với nước non” thể hiện sự dãi dầu sương gió → sự tủi hổ, bẽ bàng
- Trơ trọi, lẻ bóng + thủ pháp đối: “cái hồng nhan” >< ” nước non” → cảm giác cô đơn trống vắng
- Thủ pháp đảo: từ “trơ” đứng đầu câu + nhịp điệu thơ 1/3/3 → nhấn mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng.
- Từ “trơ” – trong văn cảnh câu thơ – không chỉ là bẽ bàng, tủi hổ mà còn thể hiện sự kiên cường, bền bỉ, thách thức. Nó đồng nghĩa với từ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan:“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Thăng Long thành hoài cổ) → bản lĩnh, cá tính Xuân Hương.
- Từ “hồng nhan” đặt bên cạnh từ “cái” → sự rẻ rúng, mỉa mai.
⇒ Câu thơ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng của nhà thơ trước tình cảnh của chính mình
b. Hai câu thực
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
- Cụm từ “say lại tỉnh”: gợi lên vòng tình duyên quẩn quanh, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận
- “Vầng trăng”
- “bóng xế”: trăng đang tàn
- “khuyết chưa tròn”: chưa trọn vẹn
→ Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên không trọn vẹn
- Nghệ thuật: phép đối
⇒ Xót xa, cay đắng cho duyên phận dang dở, lỡ làng
c. Hai câu luận
” Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
- Nghệ thuật: đảo ngữ, động từ mạnh, đối → xiên ngang: rêu; đâm toạc: đá ⇒ Bức tranh thiên nhiên sinh động, giàu sức sống
- Hình ảnh thơ: Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây → không chỉ diễn tả sự phẫn uất mà đó còn là sự phản kháng trước số phận hẩm hiu, tình duyên dang dở
⇒ Ý thức về hạnh phúc, tình duyên
d. Hai câu kết
” Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
- “Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm → mệt mỏi, chán chường trước duyên phận éo le, bạc bẽo.
- Từ “xuân” mang hai nghĩ: vừa là “mùa xuân” vừa là “tuổi xuân”. Mùa xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn, vĩnh cửu còn tuổi xuân của đời người thì qua đi không bao giờ trở lại.
- Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai nghĩa khác nhau:
- Từ “lại” thứ nhất mang ý nghĩa thêm lần nữa
- Từ “lại” thứ hai có nghĩa là trở lại.
→ Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả cảm nhận sự chảy trôi của thời gian, đời người với bao xót xa, tiếc nuối.
- Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến Mảnh tình – san sẻ – tí – con con → nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn “san sẻ” thành ra ít ỏi chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa tội nghiệp.
→ Câu thơ là cảnh ngộ và là tâm trạng bi kịch của nữ sĩ: càng khát khao hạnh phúc càng thất vọng, mơ ước càng lớn thực tại càng mỏng manh ⇒ nỗi ngao ngán về số phận và thực tại phũ phàng, tình duyên lận đận