1. Tiểu sử tác giả Bằng Việt
– Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
– Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam.
– Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn.
– Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
– Sau đó được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, làm tổng biên tập tờ tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (1989-1991).
– Năm 2001, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội và được bầu lại làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2006 – 2010.
– Ông cũng từng làm Thư ký thường trực, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội (1991-2000).
2. Sự nghiệp sáng tác:
Bằng Việt là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông bắt đầu sáng tác thơ từ những năm 60 và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội và là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (1985).
Thơ của Bằng Việt được đánh giá là trẻ trung, hồn nhiên và tài hoa, với cảm xúc tinh tế, giọng điệu tâm tình, trầm lắng, suy tư và giàu triết lí. Ông sử dụng nhiều loại thơ không vần và các hình thức thơ đã có trong thơ Việt Nam và thế giới. Ngoài sáng tác thơ, ông còn dịch thơ và biên soạn một số từ điển văn học.
Tập thơ đầu tiên của Bằng Việt, Hương Cây-Bếp Lửa (1968), được viết cùng với Lưu Quang Vũ. Sau đó, ông đã xuất bản nhiều tập thơ nổi tiếng khác như Những Gương Mặt – Những Khoảng Trời (1973), Đất Sau Mưa (1977), Khoảng Cách Giữa Lời (1984), Cát Sáng (1985) được viết chung với Vũ Quần Phương, Bếp Lửa – Khoảng Trời (1986) và Ném Câu Thơ Vào Gió (2001).
Những đóng góp của Bằng Việt cho văn học Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ và giai đoạn sau đó đã giúp ông nhận được nhiều giải thưởng văn học trong và ngoài nước. Ông còn dịch thơ của nhiều nhà thơ nổi tiếng từ nhiều quốc gia khác nhau và tham gia biên soạn một số từ điển văn học.
Tóm lại, Bằng Việt là một nhà thơ tài năng, ảnh hưởng và để lại di sản sâu sắc trong văn học Việt Nam.
3. Phong cách sáng tác tác giả Bằng Việt:
3.1. Đặc điểm chung của thơ Bằng Việt:
Bằng Việt – một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông đậm những đặc điểm của thời kỳ này, nhưng vẫn có những nét khác biệt riêng. Bằng Việt là một nhà thơ tài năng và sáng tạo. Phong cách thơ của ông đa dạng, giàu sáng tạo và trẻ trung. Nội dung thơ của Bằng Việt đầy cảm hứng về đất nước và con người trong chiến tranh. Ông đã có nhiều đóng góp đáng kể trong việc phát triển thể thơ tự do, xây dựng ngôn ngữ thơ hiện đại, bình dị và gần gũi với người đọc. Ngôn ngữ thơ của Bằng Việt được chọn lọc từ thực tế đời sống, vận dụng tài hoa và khéo léo trong các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa giàu hình ảnh. Các liên tưởng, so sánh trong thơ Bằng Việt thường thể hiện tư duy hiện đại đậm chất trí tuệ phương Tây.
3.2. Đặc điểm phong cách của Bằng Việt thời chiến:
Bằng Việt đã viết một số bài thơ như Tình yêu và báo động, Thư gửi người bạn xa đất nước, Trở lại trái tim mình để ghi lại những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên yêu mến cảnh vật và con người của đất nước. Và Hà Nội cũng hiện ra với nhiều nét thanh lịch hào hoa, cố hữu. Trận chiến chia đôi, em đứng ở giữa, dù chỉ ngồi nghe nhạc Bê-thoven (Bêthoven và âm vang hai thế kỷ) mang đậm tính chất thời sự trong khung cảnh chính trị những năm 1963-1964.
Bằng việt không thể hiện trực tiếp những cảnh chiến đấu anh hùng của dân tộc do điều kiện sống. Thay vào đó, anh thường lắng nghe sự lớn lên trong tâm hồn con người. Về Nghệ An thăm con là một ví dụ tiêu biểu cho hướng đó. Những bồi hồi thương nhớ của người cha ở xa chăm chú theo dõi từng bước lớn lên của con, vốn là chuyện thường ngày. Nhưng đó cũng là một khía cạnh cao đẹp của tâm hồn con người trong kháng chiến.
Với thơ ca Việt Nam, đất nước và con người trở thành một nguồn cảm hứng đặc biệt và Bằng Việt cũng có một nguồn cảm hứng vô tận về đất nước và con người dân tộc. Qua mỗi chặng đường sáng tác thơ, nguồn cảm hứng ấy được mở rộng, đậm đà và rõ nét hơn.
Khi Bằng Việt sáng tác Đất nước, đang là thời điểm chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra dữ dội. Bằng Việt và các nhà thơ thời đó đã nhận thấy rõ bộ mặt thật của kẻ thù và cảm nhận sâu sắc những nỗi đau đang đè nặng lên Tổ quốc. Từ đó, họ đã xác định rõ trách nhiệm của mình trong cuộc hành quân lịch sử ấy và sáng tác ra Đất nước. Bài thơ này khái quát được một số nét tiêu biểu của đất nước và dân tộc ta trong giai đoạn lịch sử đáng nhớ. Hình ảnh chiến trường và những đoàn quân chiến đấu chống Mỹ đêm ngày ở khắp mọi nẻo đất nước cũng được tái hiện qua những câu thơ đầy cảm xúc. Bằng Việt viết về đất nước trong chiến tranh, kết hợp giữa những khó khăn của chiến trường và vẻ đẹp của quê hương. Nhà thơ miêu tả những địa danh quen thuộc và những chiến sĩ bình dị, anh dũng. Bằng Việt cảm nhận sâu sắc về người lính, về đất nước trong chiến tranh, và những hình ảnh đó đem lại niềm rung cảm lớn. Nhà thơ Bằng Việt đã biểu hiện chân dung người lính bằng những hình ảnh đơn sơ, bình dị, thể hiện phẩm chất anh dũng, kiên cường và bền bỉ trong công việc âm thầm, đầy ý nghĩa. Trong chiến tranh, nhân dân kiên cường là những người anh hùng bình dị: họ đã đứng vững hơn trăm ngày đêm, rời khỏi khu tập trung và bắt đầu dựng xây, nuôi lợn, gà, gieo mạ, đào hầm, lập dân quân. Buổi chiều, tiếng trẻ con ríu rít và khói cơm xanh từng gian nhà là bức tranh sống động về sự kiên cường của nhân dân.Tác giả khắc họa hình ảnh người lính và người phụ nữ Việt Nam trong thơ chiến tranh. Họ luôn kiên định đi theo con đường mình đã chọn, dùng máu và mồ hôi của mình để tiếp tục bước tiếp con đường đã mở. Nhà thơ trìu mến, thương yêu những cô gái Việt Nam trong những vần thơ tình. Bằng Việt đã phác họa được bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam vừa giản dị, vừa kỳ vĩ. Các em thơ là biểu tượng của tương lai đất nước, mang sức sống mãnh liệt và tinh thần của con người Việt Nam.
Bằng Việt là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, ông đã tạo nên một nét riêng cho thể thơ tự do của mình. Với sự phát triển độ dài của câu thơ, bài thơ của ông đã gia tăng về chất liệu hiện thực mà vẫn giữ được sự nhịp nhàng, đều đặn của nhịp thơ và làm nên một giọng thơ rất đặc trưng của Bằng Việt.
Thơ của Bằng Việt ấn tượng với người đọc bởi sự gia tăng yếu tố văn xuôi vào thơ. Nhà thơ đã lựa chọn các từ ngữu đời thường và giàu chất văn xuôi làm chất liệu sáng tác. Ông đã sử dụng những câu thơ như chính lời kể rất thực và chân thực của nhân dân để tạo ra bài thơ với chất hiện thực của chính những con người bình dị trong thời kỳ bom đạn. Chẳng hạn như trong bài thơ “Bếp lửa”, ông viết: “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: “ Bố ở chiến khu còn việc của bố Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” Đây là những câu thơ dài, tự nhiên như lời nói, lời kể gần gũi mang hình bóng của văn xuôi nhưng khi đọc nên người đọc vẫn cảm nhận được chất thơ một cách tự nhiên mà vẫn có sự trau chuốt nghệ thuật kín đáo và tinh tế.
Bằng Việt còn rất giàu chất gợi hình và gợi cảm trong cách sử dụng ngôn từ. Đặc biệt, ông thường sử dụng rất nhiều tính từ trong các bài thơ của mình. Các sự vật, hình ảnh trong thơ của ông gợi nên rất chân thực, màu sắc và sinh động nó giúp khơi gợi những liên tưởng tinh tế đối với độc giả. Bên cạnh đó, ta cũng bắt gặp nhiều câu thơ giàu chất tạo hình nhờ những liên tưởng và tưởng tượng đặc sắc của tác giả như trong bài thơ “Mừng em tròn mười sáu tuổi”: “Tháng giêng đan đầy trời mưa xuân, Mái ngói quanh thôn hồng nối hồng, Mái ngói, mái ngói liền mái ngói, Từng lớp mừng vui, lớp ước mong”.
Trong sáng tác của Bằng Việt còn có rất nhiều các biểu tượng đẹp và giàu ý nghĩa được sử dụng như người lính, hoa và em, ngọn lửa, đất, mẹ… điều này thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà thơ về thế giới và con người. Tóm lại, Bằng Việt đã tạo ra một phong cách thơ đặc trưng riêng biệt, đem lại cho độc giả một trải nghiệm đọc thơ đầy sáng tạo và tinh tế.